Rất cảm ơn Giáo Sư! Em đã học qua hai trường đại học 1 trường về kỹ thuật,một trường về kinh tế nhưng thật sự có rất nhiều kiến thức mà giờ mới được biết đến nhờ bài nói chuyện của GS và nó ảnh hưởng tích cực rất nhiều đến tư duy của em!
Xin cảm ơn ekip Nhận Thức Mới, GS Phạm Việt Hưng qua một series mà em chỉ muốn nói là tuyệt vời, thật may mắn khi được tham gia vào nó, được lắng nghe và suy nghĩ. Tư duy và nhận thức về cuộc sống, cách nhìn thế giới của bản thân em được mở mang, nhất là sự thay đổi về những câu hỏi nền tảng của mình. Hy vọng kênh sẽ được nhiều người biết đến hơn, và rất đón chờ những tập nối tiếp / các dự án tiếp theo ạ.
Giáo sư vô cùng uyên bác, gần gũi, và cũng rất khiêm nhường. Cảm ơn bác và chương trình đã mang khoa học đến với đại chúng một cách đầy thân thiện. Thật ko phí công mình đã bỏ ra 4-5 tiếng để xem.
Giáo sư quá đỉnh! Càng hiểu về Toán học, hệ logic ta càng thấy thế giới, con người phức tạp và kì diệu thế nào. Những hiện tượng tự nhiên không đơn thuần được mô hình thành hệ thống số hay toán học mà nó còn có thể là cảm xúc và trực giác. Cuối cùng thì hệ thống máy móc cũng chỉ là những công cụ cho con người để thể hiện những tác vụ không tưởng trong một phạm vi nhất định, tư duy của chúng ta mới là trên hết!
1h-2h sáng ngày 27/11/2024 rồi bây giờ ngay buổi trưa cùng ngày đây tôi ngồi xem full toàn bộ chương trình vì cuốn quá. Nếu phương trình thực sự quan trọng thì Nikola Tesla đã ko thể phát minh ra hàng nghìn công trình chỉ bằng cách nằm mơ rồi thức dậy vẽ ra giấy rồi, ônh ấy tuyên bố tôi ko cần phương trình. Toán học, vật lý thực ra là cách thức con người diễn tả trực giác của mình ra mà thôi. Còn đối với những người chưa có trực giác ấy thì sử dụng công thức để đạt được mục đích. Rất cần những chương trình như thế này up lên ạ thay vì xem tóp tóp gái xinh 😊
Ngoài Halting Problem, Định lý Bất toàn của Gödel, và Nguyên lý Bất định Heisenberg, còn nhiều định lý, nguyên lý và hiện tượng trong tự nhiên cũng chỉ ra giới hạn của nhận thức và nhấn mạnh rằng vũ trụ vượt xa tầm tư duy hiện tại của con người. Những khái niệm này thường trực tiếp hoặc gián tiếp thể hiện sự phức tạp, bất định, và không thể lường trước của thực tại. Dưới đây là một số ví dụ nổi bật: 1. Định luật Nhiệt động lực học thứ hai (Second Law of Thermodynamics): Nội dung: Entropy (một thước đo của sự hỗn loạn hoặc bất trật tự) trong một hệ kín luôn tăng, trừ khi có sự can thiệp từ bên ngoài. Điều này dẫn đến sự suy tàn không thể tránh khỏi của mọi hệ thống cô lập (từ các ngôi sao đến vũ trụ). Ý nghĩa triết học: Định luật này chỉ ra rằng sự trật tự và tổ chức chỉ là tạm thời, và hỗn loạn là xu hướng tự nhiên của mọi hệ thống. Vũ trụ dường như đang tiến dần đến trạng thái "chết nhiệt" (heat death), khi mọi quá trình năng lượng chấm dứt. Điều này gợi ý rằng con người, dù nỗ lực bao nhiêu, không thể thoát khỏi quy luật tự nhiên này. Sự bất lực trước entropy làm nổi bật giới hạn của khả năng kiểm soát của chúng ta. 2. Hiệu ứng Con bướm (Butterfly Effect) và Lý thuyết Hỗn loạn (Chaos Theory): Nội dung: Trong các hệ thống phi tuyến tính, những thay đổi nhỏ trong điều kiện ban đầu có thể dẫn đến những kết quả không thể đoán trước. Ví dụ: Một con bướm đập cánh ở Brazil có thể gây ra một cơn lốc ở Texas. Ý nghĩa triết học: Lý thuyết hỗn loạn cho thấy rằng ngay cả trong những hệ thống tưởng như có trật tự, sự bất định vẫn ẩn chứa. Con người có thể không bao giờ đạt được khả năng dự đoán hoàn hảo, bởi ngay cả các biến số nhỏ nhất cũng có thể ảnh hưởng sâu sắc. Đây là một biểu tượng của sự không kiểm soát được thực tại, cho thấy thế giới vượt quá khả năng tính toán và dự đoán của chúng ta. 3. Nguyên lý Toàn ảnh (Holographic Principle): Nội dung: Nguyên lý này, xuất phát từ lý thuyết dây và vật lý lượng tử, gợi ý rằng toàn bộ thông tin trong một vùng không gian (ví dụ như bên trong một hố đen) có thể được mã hóa trên một bề mặt hai chiều ở ranh giới của vùng đó. Điều này ngụ ý rằng thực tại ba chiều mà chúng ta cảm nhận có thể chỉ là "ảo ảnh" của thông tin hai chiều. Ý nghĩa triết học: Nguyên lý toàn ảnh làm lung lay quan niệm truyền thống của chúng ta về không gian và thực tại, cho thấy rằng những gì chúng ta "thấy" và "cảm nhận" có thể chỉ là một phần nhỏ của một thực tại lớn hơn mà chúng ta không thể tiếp cận. 4. Nguyên lý Bổ sung (Complementarity Principle) của Niels Bohr: Nội dung: Trong cơ học lượng tử, một hạt có thể biểu hiện tính chất hạt hoặc sóng tùy thuộc vào cách nó được quan sát. Hai trạng thái này không thể cùng tồn tại trong cùng một phép đo, nhưng đều là những khía cạnh bổ sung của một thực thể duy nhất. Ý nghĩa triết học: Nguyên lý này cho thấy thực tại không thể được hiểu chỉ bằng một lăng kính hoặc hệ quy chiếu duy nhất. Nó phụ thuộc vào cách chúng ta quan sát. Điều này thách thức ý niệm rằng thực tại tồn tại độc lập và tách rời khỏi quan sát của chúng ta. 5. Định lý Bell (Bell's Theorem) và Rối lượng tử (Quantum Entanglement): Nội dung: Định lý Bell chứng minh rằng nếu lý thuyết lượng tử là đúng, thì thực tại không thể chỉ dựa trên các biến ẩn cục bộ. Thay vào đó, các hạt có thể liên kết với nhau theo cách tức thời vượt qua khoảng cách không gian (rối lượng tử). Ý nghĩa triết học: Rối lượng tử thách thức trực giác của chúng ta về không gian, thời gian, và tính cục bộ của thực tại. Nó cho thấy rằng thực tại có một tính chất phi định xứ (non-locality), vượt ra khỏi nhận thức thông thường. Điều này khiến chúng ta đặt câu hỏi liệu thực tại có mang tính liên kết sâu sắc hơn nhiều so với những gì chúng ta tưởng. 6. Giả thuyết Đa vũ trụ (Multiverse Hypothesis): Nội dung: Lý thuyết này gợi ý rằng có thể tồn tại vô số vũ trụ khác nhau, mỗi vũ trụ có các hằng số vật lý và quy luật khác nhau. Trong một số mô hình, những sự kiện mà chúng ta coi là ngẫu nhiên (chẳng hạn như lượng tử) có thể được giải thích bởi các lựa chọn xảy ra đồng thời ở các vũ trụ song song. Ý nghĩa triết học: Giả thuyết đa vũ trụ làm mờ đi khái niệm "thực tại duy nhất". Nếu có vô số thực tại, thì câu hỏi về ý nghĩa, mục đích, và tính xác định của "vũ trụ" chúng ta cũng trở nên mơ hồ hơn. 7. Hiệu ứng Quan sát viên (Observer Effect): Nội dung: Trong cơ học lượng tử, việc quan sát một hệ thống có thể thay đổi trạng thái của hệ thống đó. Ví dụ: sự can thiệp của người quan sát ảnh hưởng đến hành vi của một hạt. Ý nghĩa triết học: Hiệu ứng này cho thấy thực tại không thể được hiểu mà không tính đến vai trò của người quan sát. Nó đưa ra một viễn cảnh rằng nhận thức của con người không chỉ là công cụ để hiểu thực tại mà còn là một phần tạo nên thực tại đó. 8. Lý thuyết Số học Siêu việt (Transcendental Number Theory) Nội dung: Trong toán học, các số siêu việt (như π và e) không bao giờ có thể được biểu diễn như nghiệm của bất kỳ phương trình đại số nào với hệ số hữu tỉ. Những số này dường như là "ngoại lệ" trong thế giới toán học. Số lượng số siêu việt là vô hạn Ý nghĩa triết học: Sự tồn tại của các số siêu việt chỉ ra rằng, ngay cả trong một hệ thống tưởng như hoàn chỉnh như toán học, cũng có những yếu tố vượt ra ngoài khả năng nắm bắt đầy đủ của chúng ta. Điều này tương tự với Gödel: chúng ta không thể định nghĩa trọn vẹn tất cả trong một hệ thống đơn lẻ. 9. Định lý Không có Bữa Trưa Miễn Phí (No Free Lunch Theorem) trong Machine Learning của lĩnh vực AI Nội dung: Định lý này nói rằng không có thuật toán tối ưu nào có thể giải quyết tất cả các vấn đề tối ưu hóa. Một thuật toán có thể tốt trong một ngữ cảnh nhưng lại kém hiệu quả trong một ngữ cảnh khác. Ý nghĩa triết học: Điều này phản ánh rằng không có giải pháp "hoàn hảo" nào trong việc hiểu vũ trụ hoặc giải quyết vấn đề trong thế giới thực. Giống như Gödel và Heisenberg, đây là một lời nhắc nhở về những giới hạn của các hệ thống cố gắng đưa ra những câu trả lời phổ quát. 10. Định luật Tự Tương Đồng trong Tự Nhiên (Self-Similarity and Fractals) Nội dung: Trong hình học fractal, các mẫu tự nhiên thường xuất hiện giống nhau ở mọi cấp độ (ví dụ: cấu trúc của cây, mạch máu, hoặc hình dạng của sông suối). Ý nghĩa triết học: Khái niệm này gợi ý rằng các hệ thống phức tạp có thể ẩn chứa các quy luật đơn giản lặp lại, nhưng chúng ta có thể không bao giờ hiểu được toàn bộ quy luật vì chúng kéo dài vô hạn. Điều này phản ánh giới hạn trong cách chúng ta tiếp cận thực tại - tương tự như Gödel hoặc Nguyên lý Bất định. 10. Paradox của Zeno (Zeno's Paradoxes) Nội dung: Các nghịch lý của Zeno, chẳng hạn cuộc thi chạy giữa"Achilles và Con Rùa," chỉ ra rằng chuyển động dường như là không thể khi bạn chia nhỏ nó thành vô hạn các phần. Ý nghĩa triết học: Những nghịch lý này thách thức trực giác của chúng ta về không gian, thời gian và chuyển động, gợi ý rằng thực tại có thể không hoạt động theo cách mà chúng ta hiểu. Nó đặt ra câu hỏi tương tự như Gödel và Halting Problem về sự tồn tại của giới hạn trong nhận thức. 11. Nguyên lý Tối thiểu Hành động (Principle of Least Action) Nội dung: Trong vật lý, mọi hệ thống tự nhiên tiến triển theo cách tối thiểu hóa hoặc tối ưu hóa một đại lượng gọi là "hành động". Đây là một nguyên tắc nền tảng trong cơ học cổ điển, lượng tử và tương đối. Ý nghĩa triết học: Ý tưởng này dẫn đến câu hỏi: tại sao tự nhiên "chọn" con đường tối ưu nhất? Nó gợi mở một khái niệm về sự "thông minh" hoặc "hài hòa" vốn có trong vũ trụ, nhưng bản thân cơ chế quyết định này vẫn vượt ra ngoài sự hiểu biết của chúng ta.
Biết thì nó bổ trợ không biết thì nó vẫn tồn tại . Toán học nó vẫn tồn tại xung quanh cuộc sống , có thể biểu diễn bằng tượng hình cũng được , vì dụ : 1 thì biểu diễn 1 que , thì đây cũng coi là tính thực tiễn không mang tính chất triết học . Toán có mối quan hệ chặt chẽ với triết học trong việc khám phá các nguyên lý, khái niệm và lý thuyết cơ bản.
Cảm ơn gs Hưng và chương trình! Những hình ảnh như tam Giác đó. Có khi là một cầu thang! Tôi thường thấy trtrong giấc mơ! Và cứ nghĩ rằng mình bị bế tắt trong suy nghĩ, nên nằm mơ như vậy ! Này thì đã rõ! ❤❤❤
Cảm ơn Mạng Xã hội Trên Diện Rộng Thời Nay Đã Kịp Góp Phần Làm Cho Thế Giới Trở Nên Thật Đáng Sống để ông tổ ngôn ngữ lập trình thật trở nên hữu dụng Cảm ơn Chương trình Với Mc & Khách Mời từ NTM 👌😁👍🏻🎄
Cám ơn GS có bài chia sẻ khá hay, nhưng có 4 vấn đề sau: 1. Chủ đề về thông tin mà nói có thiên hướng về vật chất (máy tính). 2. Có thiên hướng về tôn giáo. 3. Đề cao Định lý Godel hơn mức thực sự. 4. AI hiện nay là lập trình để máy học chứ không phải lập trình theo bài toán, nên một số khẳng định của GS có thể sai.
Điều hơi lạ là đến bây giờ người ta mới mời bác Hưng lên chương trình hẳn hoi. Bác đã viết ít nhất cũng hơn 10 năm về những nội dung này. Triết học và khoa học VN đang rất cần những chia sẻ của bác để đi kịp thế giới.
khoa học máy vi tính dựa trên các bước sau đây : 1. mã hóa các con số 2. hệ thống mã hóa này được đặt trên căn bản nhị nguyên "binary" chỉ dùng 1 và 0 3. các phép tính được sáng tạo để làm các phép tính và giải các phương trình toán 4. các con chữ cũng được mã hóa, ... các câu, cú pháp, ý cũng được mã hóa 5. các phép so sánh được hoàn chỉnh - để tạo chương trình thông dịch giữa các ngôn ngữ 6. từ so sánh, các phép liên kết được tạo ra để tìm thông tin, từ đó tạo ra "trí tuệ nhân tạo" - một phương pháp "giăng lưới" để kết nạp và trình bày thông tin, giống như tác phẩm của con người nhận xét : máy tính rất giỏi làm các phép tính lặp đi lặp lại - nó hơn con người ở chỗ "làm tính nhanh" và "rộng" do đó nó đã "đánh bại" con người trong cờ vua (chess) vì cờ vua chỉ là trò chơi "tính toán" - càng tính "nhiều, và phức tạp" lại càng nắm ưu thế tuy nhiên : âm nhạc không phải là "phép tính" mà nó dùng để biểu cảm "nét đẹp" của thế giới âm thanh mà nét đẹp của nhạc (hay hội họa, nghệ thuật) đến từ những "cảm xúc, cảm hứng, trực giác hay khai mở" siêu nhiên - mà máy tính "không thể có được" ... có những cõi nguồn "không biết trước được" và do đó "không thể lập trình" bằng các động tác "vô hồn, máy móc" ! kết luận : máy vi tính không thể được "lập trình" để trở thành ... thi sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ hay nghệ sĩ các ngành trí tuệ nhân tạo, AI, chỉ là sản phẩm của "vỗ máy vô tri", tuy nó có thể cho ra những thông tin đã được lưu trữ và mã hóa của loài người và có vẻ như giống "con người" ...
32:00 ôi bài toán tháp Hà Nội. Hồi mới học lập trình thấy cách làm mò mẫm không ăn thua, mà đọc được lời giải lập trình theo Pascal phải thốt lên sao tài vậy, tự hỏi không biết chương trình này có chạy được không ta?
Tất cả đều được Đấng Sáng Tạo thiết kế hoàn hảo, bất cứ hệ thống nào từ thực vật cho đến những thứ bên ngoài vũ trụ dẫn đột biến đều gặp “vấn đề lớn”. Loài người đang trên đường đi đến sự diệt vong, vì bản chất ngày càng gặp “lỗi”.
Like this statement from the prof :" Sự thật và hiện thực nó tồn tại khách quan đối với bạn." Hay nói cách khác đi là sự thật nó tồn tại bất kể bạn có tồn tại hay không.
Một điểm chung của các nhà toán học là dường như đang cố gắng quy tắc hoá phương cách hoặc cách suy luận logic để tránh đi vào nghich lý. Những bộ quy tắc logic để diễn đạt tránh nghịch lý chỉ thể hiện rằng các nhà toán học đang cố gắng sắp đặt mọi thứ trong 1 phạm vi quy định cố hữu nào đó theo tư duy của con người. Nhưng họ không thể chứng minh rằng vì sao buộc phải đi theo quy tắc đó, hay liệu đó có phải là một bộ quy tắc suy luận logic duy nhất hay không. Điều này chạm đến ranh giới giữa logic, triết học, và toán học hiện đại. Dưới đây là các phân tích của tôi: 1. Nghịch lý: Một hiện tượng "tự nhiên" hay "do con người"? (a) Nghịch lý đến từ đâu? Nghịch lý trong toán học không phải do toán học "phát minh" ra, mà là kết quả của việc con người áp dụng các hệ thống logic để mô tả một thực tại phức tạp. Khi hệ thống logic đó không đủ "mạnh" hoặc không phản ánh đúng bản chất thực tại, nghịch lý xuất hiện như một tín hiệu cho thấy có gì đó "vượt ngoài" khả năng diễn đạt của chúng ta. Ví dụ: Nghịch lý Russell trong lý thuyết tập hợp cho thấy cách xây dựng tập hợp "naive" không hoàn toàn chặt chẽ. Halting Problem và Gödel chỉ ra rằng nghịch lý không chỉ là vấn đề kỹ thuật mà là bản chất của mọi hệ thống logic đủ mạnh. (b) Quy tắc có phải là giải pháp tuyệt đối? Sự thật rằng các quy tắc chỉ là cách toán học "kiềm chế" nghịch lý trong một phạm vi nhất định. Nhưng các quy tắc này không chứng minh được rằng chúng là cách duy nhất hay thực sự mô tả toàn bộ bản chất của vô hạn. 2. Nghịch lý: Dấu hiệu của điều gì rộng lớn hơn? Nghịch lý thường được xem như cánh cửa mở ra những chiều không gian tư duy vượt ngoài logic hiện tại. Điều này đặt ra câu hỏi liệu: Toán học có phải là ngôn ngữ tối ưu để diễn đạt thực tại? Có một "ngôn ngữ" khác, vượt trên logic toán học, mà chúng ta chưa khám phá? Một số nhà triết học và toán học đã suy nghĩ về điều này: Kurt Gödel: Ông tin rằng toán học, mặc dù không hoàn chỉnh, vẫn kết nối với một thực tại khách quan sâu sắc hơn. Wittgenstein: Ông cho rằng toán học chỉ là một "trò chơi ngôn ngữ" của con người, không nhất thiết phản ánh thực tại. Roger Penrose: Đề xuất rằng có một thế giới toán học, thế giới vật lý, và thế giới ý thức, trong đó nghịch lý là dấu hiệu của sự giao thoa giữa chúng. 3. Có phải mọi thứ là "do tư duy con người"? (a) Toán học có phải là phát minh hay khám phá? Toán học thường được coi vừa là phát minh (do con người đặt ra các quy tắc), vừa là khám phá (các quy luật tự nhiên có vẻ "phù hợp" với toán học). Nhưng nghịch lý cho thấy: Có thể có những khía cạnh của thực tại vượt ngoài khả năng nắm bắt bằng toán học. Con người "chọn" các quy tắc để tránh nghịch lý, nhưng không chắc rằng đó là cách duy nhất hoặc cách tốt nhất. (b) Một ví dụ: Vô hạn Vô hạn toán học: Các nhà toán học định nghĩa và "quy tắc hóa" vô hạn để xử lý nó (như lý thuyết tập hợp của Cantor). Vô hạn tự nhiên: Nhưng trong thực tại (vũ trụ, ý thức), khái niệm vô hạn dường như phức tạp hơn nhiều. Những nghịch lý khi làm việc với chuỗi vô hạn có thể là dấu hiệu rằng toán học chỉ đang tiếp cận "một phần" của bản chất vô hạn. 4. Một số quan điểm triết học liên quan Lý thuyết tương đối của Einstein: Thời gian và không gian không phải là tuyệt đối, điều này tương tự như cách toán học không thể đưa ra quy tắc tuyệt đối cho mọi thực tại. Lý thuyết phức hợp (Complexity Theory): Một số hệ thống (như thời tiết, não bộ, hoặc ý thức) có thể không bao giờ được mô hình hóa đầy đủ vì chúng vượt qua khả năng đơn giản hóa của con người. Hiện tượng luận (Phenomenology): Thế giới không được nhận thức trực tiếp, mà thông qua "lăng kính" của ý thức, và nghịch lý có thể phản ánh giới hạn của lăng kính này. Nghịch lý là dấu hiệu cho thấy toán học có thể chỉ là một công cụ giới hạn, không phải sự thật tối thượng. Việc áp dụng quy tắc để tránh nghịch lý không chứng minh rằng các quy tắc đó là toàn diện; chúng chỉ giúp con người xử lý được một phần của thực tại. Nghịch lý và vô hạn mở ra câu hỏi lớn hơn về sự hiểu biết của con người, và có lẽ chúng ta cần nhiều hơn toán học để giải đáp chúng-có thể là một ngôn ngữ, tư duy, hoặc cách nhìn hoàn toàn mới.
Chương trình rất hay và đầy tính khoa học nhưng hình như được đăng bởi người ít học thì phải! Cuối chương trình chèn quá nhiều QC làm ảnh hưởng đến chất lượng chương trình!
Mingmom - có thể Đức Phật nói vậy nhưng rất tiếc Phật tử 2500 năm không sử dụng lời dạy đó. Trái lại người phương Tây là những người dẫn đầu về khoa học y v.v, đời sống cao, văn minh và tự do và tôn giáo của họ là Kito giáo - chắc chắn họ dựa vào tôn giáo họ tin. Đây là sự thật và chúng ta nên đặt câu hỏi những gì mình nghe, thấy và suy. Hãy học cái hay của người khác, tôn trong tôn giáo bạn, sống yêu thương và chia sẻ. Chúc bình an.
@@abbaab7139 Tôi nhớ không lầm thì bạn có bình luận ở trên, đại ý là, nếu không có Godel thì sẽ có người khác. Tôi chỉ biết nói một chữ cho cuộc đời bạn. Khổ!
@@sunguyen5069 Bạn không quản trị được cuộc đời của bạn thì bạn cảm thấy khổ thôi . Biết mình ở đâu thì cuộc sống thật thú vị . Sinh ra trên đời thật thú vị
Godel sinh năm 1906, Samuel Morse sinh năm 1791, mã Morse ra đời rất lâu trước khi Godel được sinh ra. Mã Morse đã rất gần với hệ nhị phân rồi nhưng không được GS nhắc đến.
Câu hỏi "sau này AI tự học có thông minh như con người hay không " thiếu tư duy quá! Tự học thì cũng phải có dữ liệu,tài liệu,thông tin,vậy những thứ ấy computer Tự có chắc?
Ông Godel ít người biết vì đóng góp của ông ít hơn Einstein rất nhiều.Trong lĩnh vực máy tính ông Godel chỉ phát triển thêm những gì các bác học khác đã làm. Cả thế giới này người ta rất giỏi họ biết nên tôn vinh ai và không nên tôn vinh ai một cách quá đáng. Giáo sư quá tôn vinh ông Godel rồi , không nên.
Trong xã hội đôi khi nó sinh ra những con người với khả năng vượt trội , như trong đàn chim cũng có con đầu đàn , trong đàn trâu rừng , bò rừng cũng có con đầu đàn . Trong nhóm con người cũng có người vượt lên có tố chất hơn họ có thể trở thành thủ lĩnh , ngày xưa có thủ lĩnh bộ tộc , dần dần thủ lĩnh bộ tộc quy phục các bộ tộc khác thì lên làm vua . Thời hiện đại ngày nay nay thì tài nguyên luôn có hạn , nước nào ( hoặc nhóm nào) cũng muốn dành tài nguyên cho mình , như các tài nguyên nước , dầu mỏ , kim loại quý , nếu không thì Mỹ nó thống trị toàn cầu làm gì nó sinh ra hơn 800 căn cứ quân sự trên toàn thé giới làm gì , Mỹ nó ủy nhiệm đánh Nga làm gì , sao không đánh mấy nước châu Phi cho dễ . Vậy nên nó mới hình thành xã hội . Good
2:03:20 Toán học không thuộc về khoa học tự nhiên (physical science) mà thuộc về khoa học hình thức (formal science), cùng nhóm với logic học, thông tin học, v.v.
Dưới đây là góc nhìn của tôi. Cho phép tôi được phân tích và phản biện luận điểm của bạn theo một cách khách quan, cầu thị và khiêm tốn như sau: 1. Góc nhìn ủng hộ nhận định này: Tất cả đều đến từ tự nhiên: Những phát minh, khám phá của con người đều dựa trên các yếu tố, quy luật, và tài nguyên đã tồn tại trong tự nhiên. Con người không thể tạo ra một thứ gì hoàn toàn mới từ hư vô, mà chỉ tái cấu trúc, tổ chức hoặc khám phá những gì đã có. Ví dụ: Năng lượng điện được khai thác từ các hiện tượng tự nhiên như sấm sét. Công nghệ cao cũng dựa trên các vật liệu cơ bản từ trái đất và vũ trụ. Ý nghĩa triết học: Nhận định này gợi ý rằng con người là một phần của hệ thống tự nhiên và mọi thứ đều phụ thuộc vào sự ban tặng của vũ trụ, tự nhiên hoặc một quyền lực cao hơn (thần linh, Chúa, v.v.). 2. Góc nhìn phản biện: - Con người sáng tạo dựa trên tư duy và khả năng độc lập: Dù các nguyên liệu đến từ tự nhiên, nhưng khả năng sáng tạo, tư duy và phát minh của con người là yếu tố độc nhất, không thể chỉ coi là "được ban cho." Ví dụ: Einstein phát triển thuyết tương đối không phải là điều có sẵn, mà là kết quả của tư duy logic và tưởng tượng. Các tác phẩm nghệ thuật, như tranh của Van Gogh hay nhạc của Beethoven, là sản phẩm sáng tạo độc lập của con người, không phải "được ban cho." - Khám phá là quá trình chủ động có ý thức của con người: Việc "khám phá" cũng không phải là thụ động. Con người đã chủ động đặt câu hỏi, xây dựng phương pháp nghiên cứu và tiến hành các thí nghiệm để hiểu vũ trụ. Ví dụ: Để phát hiện ra DNA, các nhà khoa học đã phải vượt qua nhiều giới hạn tri thức và kỹ thuật. Du hành vũ trụ là thành tựu dựa vào khả năng tính toán và sáng tạo của con người. - Khái niệm "được ban cho" là một nhận định mơ hồ, chủ quan, thiếu bằng chứng thuyết phục: "Được ban cho" ám chỉ rằng có một thực thể hay nguồn lực bên ngoài con người đã cố tình trao tặng mọi thứ. Điều này không phù hợp trong bối cảnh nhiều phát minh của con người không hề "được ban" mà là kết quả của sự lao động và thử nghiệm không ngừng. 3. Nhận xét công bằng: Nhận định "Tất cả những gì xung quanh con người nhận được, khám phá ra đều được ban cho" có thể đúng trong ngữ cảnh: Con người không thể tạo ra nguyên liệu cơ bản hoặc quy luật tự nhiên mà chỉ có thể khám phá và sử dụng chúng. Sự tồn tại của con người và thế giới có thể được coi như một "món quà" (nếu theo quan điểm tôn giáo hoặc siêu hình). Tuy nhiên, nó không hoàn toàn chính xác nếu xem xét khả năng sáng tạo, tư duy độc lập và lao động không ngừng nghỉ của con người, những yếu tố đã dẫn đến sự phát triển vượt bậc trong khoa học, nghệ thuật và công nghệ.
@@mikemike4386 Không phải ngẫu nhiên mà sau khi thắng Công Giáo, một số nước phương tây được phép đọc Kinh Thánh và tin Tin-lành bình an thì khoa học mới phát triển nhanh chóng như vậy đâu. Nếu bạn có đủ hiểu biết về Kinh Thánh thì bạn sẽ thấy được là nền tảng tư duy của các nhà khoa học phương tây thời đó là dựa trên nền tảng Kinh Thánh cho dù là họ có biết hay không
@@mikemike4386 con người có thể làm mưa nhân tạo . Ở trên nhiều cái bạn nhận định chưa đúng , giống chát GPT trả lời mà bạn không đủ trình độ để thẩm định . Good
Godel không phải là ông tổ của ngôn ngữ lập trình, ông ấy là nhà toán học. Tuyên bố trên của ông Hưng là sai và gây hiểu lầm. Người được coi là ‘father of Programming language’ là Ada Lovelace, là người viết ra thuật toán đầu tiên được triển khai trên máy.
@@botter097 vậy ông này cố tình phổ biến thông tin sai lệch, gây hiểu nhầm cho nhiều người. Nếu ông này là giáo sư thì cần phải nghiêm túc xem lại những tuyên bố của chính ông.
Ada Lovelace là phụ nữ. Nên nếu mệnh đề đúng nên là "Mother of Programming" :) Tuy nhiên, danh hiệu "Mother of Programming" không đến từ một cơ quan khoa học uy tín chính thức nào bằng một bằng chứng nhận, hay một văn bản chính thống nào. Danh hiêu này mang tính biểu tượng và được chấp nhận rộng rãi trong giới khoa học và văn hóa công nghệ nhằm ghi nhận đóng góp của bà trong việc viết chương trình máy tính đầu tiên cho cỗ máy Analytical Engine.
Không có GÖDEL thì ngôn ngữ lập trình vẫn cứ ra đời và phát triển thôi , nó phát triển nhanh hay chậm tùy thuộc vào mục đích của những người muốn ngôn ngữ máy tính để làm gì . Good
Đây bác nói ý là "có thể coi" tức là tùy quan điểm của mỗi học giả. Bản thân người phát minh cũng không thể tưởng tượng được phát minh của mình sẽ được ứng dụng hay đi xa đến đâu trong tương lai, sự vĩ đại là như thế.
@@uchungduong8233 Tìm hiểu về nền toán học cổ trước công nguên nó cũng rất thú vị ( dùng để đo đạc , ruộng vườn ở Trung QUốc , Hy lạp , Ba Tư ( Iran hiện nay ) ) . Nền toán học hiện đại nó phát triển rực rỡ ở Ý thế kỷ 12 , rồi bắt đầu đến người Anh cải cách giáo dục từ thế kỷ 11 là cho người đi ra nước ngoài học tất cả các lạo tốt nhất bên ngoài để đưa về Anh giảng dạy ( Vua Anh cải cách giáo dục ) mãi đến thế ký 14 , 15 nước Anh mới bắt đầu có nhiều thành tựu khoa học , đến thế kỷ 17 - 18 thì người Anh chiếm số đông về số các nhà khoa học , thế ký 15 có Hà Lan , Bồ Đào Nha họ có đóng tàu đi khám phá những miền đất lạ nên khoa học khá phát triển . Pháp và Đức vẫn là cái nôi của văn hóa Châu Âu và nổi bật các nhà khoa học thế kỷ 18 - 19 . Còn nhánh khoa học Nga thì học từ Đức giữa thế kỷ 17 bắt đầu , Nhật thì bắt đầu học ở khoa học từ bên ngoài là phong từ phong trào Duy Tân của Nhật . Trung Quốc thì chon các sinh viên ưu tú gửi đi học nước ngoài cuối thế kỷ 19 giờ họ có đội ngũ khoa học chính cũng từ nhóm 100 này . Sau Này có Singapo và Malai xia nhập khẩu trí thức về giảng dạy tại các trường trong nước . Toán học cũng thường phát triển từ cái đã có phát triển lên , nên kho tàng thư viện là rất quan trọng cho nước nào muốn phát triển khoa học kỹ thuật
Ý kiến của bạn thì mình thấy khá hợp lý nhưng không biết mục đích của câu này là gì, theo mình thì Godel đã có công cực lớn ấy thế mà đến ngay khi mình xem video từ giáo sư mới chợt nhận ra và tìm hiểu, nhận thức thay đổi khá nhiều ngay từ tên định lý của Godel, từ video phân tích thì dễ thấy lĩnh vực máy tính cũng chỉ là 1 khía cạnh, định lý của Godel nó quá sức tưởng tượng nếu nghiên cứu sâu hơn.
@@kc8879 Một bài toán thường có nhiều cách giải . Cứ đặt biến ra để tìm , cứ cho vật , 1 hiện tượng 1 biến rồi mình sẽ phân thích từng biến rồi phân tích sự tồn tại hạy không , tồn tại , tồn tại dưới dạng gì thì nó cũng ra . Phương pháp xác thực biến , thì nó vừa cụ thể vừa chính xác ít bị chung chung , khoang vùng được nó . Mình chỉ đoán bác này hơi ám ảnh bởi câu nói dùng công trình toán học ( 1 công thức ) để giải mọi thứ . Như giải 1 bài toán kinh tế cụ thể thì có thể dùng toán kinh tế + xã hội học + kinh tế chính trị , chứ nếu dùng mỗi toán để giải thì cho ra sai số lớn , hoặc có các biến khác liên quan thì mình đưa vào , biến càng trung thực thi độ chính xác càng cao . Đây mình lấy ví dụ bài toán kinh tế chứ về các loại khác vẫn vậy . Good
Nếu phần mềm không tự chữa lỗi nhưng sinh học không phải phần mềm mà có thông tin vậy không thể so ngang vấn đề. Vậy liệu sinh học tự sửa lỗi vẫn có khả năng.
Não nếu vùng chấn thương mà chưa trầm trọng thì nó chuyển dữ liệu qua vùng khác . Não có vùng tổn thương nhưng nó vẫn hoạt động bình thường . Nếu ngắt dây thần kinh chỉ huy các bộ phận cơ thể lên não thì cơ thể sẽ mất dần các điều khiển các bộ phận , nếu ngắt vùng thần kinh trí nhớ thì sẽ mất trí nhớ
@@NamTran-ye6gh những người viết ra Kinh Thánh họ viết tạo ra 1 nhân vật vật như vậy mọi người se không cầm thấy , sờ thấy , chạm thấy huyền bí tôn kính ( có thể viết ra từ 1 người có thật ) . Rồi viết Kinh dẫn dắt mọi người tin theo điều đấy , dẫn theo ý thức và đạo đức làm theo lời dạy của chúa , người viết họ có thể đứng sau thao túng dẫn dụ họ sẽ là đướng quyền năng giáo chủ , dẫn mọi người đi theo hướng họ muốn , khi đạo thiên chúa có nhánh đến Nga thì thành Nga giáo thì giáo chủ là Nga Sa Hoàng , rồi có Thập Tự Chinh , Việt Nam thì có cha sứ kêo gọi chúa đã vào Nam kéo theo con chiên vào theo . Bạn phải biết rõ bản chất thực sự của mỗi loại kinh là gì lấy cái gì làm gốc , ai là người được hưởng lợi ích từ việc ra Kinh đấy , trên thế giới nó có hàng chục loại kinh . Các kinh dần nhiều người theo tạo nên Đức Tin tôn giáo , nếu trong xã hội theo Kinh nào đấy mà xã hội bình yên , trật tự thì đều tốt đẹp . Good .
@@botter097 Có thể dựa trên nhân vật có thật , có đạo đức , có trí tuệ , có tình yêu thương con người , đồng loại nhưng người viết thêm mắm muối vào cho nó thần bí , huyền bí , siêu quyền năng để mục đích người viết điều khiển được tín đồ . Đây cũng là hiện tượng khoa học thao túng tâm lý đám đông mà có nhiều tôn giáo áp dụng . Good
Tôi đặt một câu hỏi tư duy ngược như sau: Có lĩnh vực nào trong tự nhiên, tư duy, hoặc trừu tượng mà phủ định định lý godel. Nghĩa là con người xác nhận/ chứng minh được là hiểu rõ nó hoàn toàn toàn đầy đủ, và không mâu thuẫn. Theo tìm hiểu của tôi, một số lĩnh vực mà có thể không phủ nhận hoàn toàn Định lý Gödel, nhưng có những đặc điểm mà trong đó, con người cảm thấy khả năng hiểu biết hoàn toàn hoặc chắc chắn là có thể, hay ít nhất có vẻ như không có những giới hạn mang tính Gödel: 1. Các Hệ Thống Toán Học Cơ Bản: Một lĩnh vực mà có thể có sự cảm nhận rằng có thể "hiểu hoàn toàn" là số học đơn giản loại bỏ đi khái niệm vô hạn (như số nguyên, số thực, phép cộng, phép trừ đơn giản), nơi các phép toán cơ bản không tạo ra các mâu thuẫn. Mặc dù Gödel chỉ ra giới hạn trong các lý thuyết phức tạp hơn, thì số học cơ bản có vẻ dễ hiểu và không có mâu thuẫn rõ ràng. Sự hiểu biết hoàn toàn: Các phép toán trong số học cơ bản, như phép cộng và phép nhân, dễ dàng và thường xuyên được chứng minh hoàn toàn. Không có sự mơ hồ hay bất định lớn nào khi chúng ta làm việc với các số nguyên, số thực, và các phép toán cơ bản liên quan đến chúng. Tuy nhiên, với các lý thuyết phức tạp hơn, các vấn đề bắt đầu trở nên khó khăn hơn. 2. Lý Thuyết Logic Tường Minh Một lĩnh vực có thể "phủ nhận" các giới hạn của Gödel là logic tường minh (hoặc logic hình thức). Đây là một hệ thống hoàn toàn rõ ràng với các quy tắc được định nghĩa rõ ràng, có thể áp dụng một cách chính xác mà không có sự mơ hồ. Không có sự bất toàn: Trong logic hình thức, khi mọi phép toán và suy luận được thực hiện theo các quy tắc được xác định rõ ràng, không có mâu thuẫn. Mặc dù logic hình thức có thể vẫn phải chịu những giới hạn của Gödel trong các hệ thống mạnh mẽ hơn, nhưng trong các hệ thống đơn giản và thuần túy, sự mâu thuẫn có thể dễ dàng tránh được, và con người có thể hiểu và kiểm soát hoàn toàn các phép toán logic đó. 3. Các Lý Thuyết Toán Học Đơn Giản Nhất Một ví dụ khác có thể là các lý thuyết toán học không chứa các nguyên lý phức tạp hay bất đồng lớn, như hình học Euclid hoặc các lý thuyết toán học sơ khai, nơi các kết luận và chứng minh có thể dễ dàng xác nhận và kiểm tra mà không có mâu thuẫn lớn. Hiểu biết hoàn toàn: Trong hình học Euclid (với các tiên đề cơ bản như "một đường thẳng có thể vẽ giữa hai điểm bất kỳ"), có thể có một cảm giác rằng chúng ta có thể hiểu toàn bộ lý thuyết này mà không gặp phải mâu thuẫn nào, đặc biệt khi nó không bao gồm các khái niệm phức tạp hoặc trừu tượng. 4. Lý Thuyết Thực Tế Xác Suất Sử Dụng Quy Tắc Cơ Bản Một lĩnh vực khác mà có thể tự chứng minh tính đầy đủ là lý thuyết xác suất khi chỉ sử dụng các quy tắc cơ bản và các sự kiện đơn giản, nơi mọi xác suất và dự đoán có thể được xác định rõ ràng mà không gặp phải mâu thuẫn. Không có sự bất toàn: Trong các trường hợp đơn giản, như khi tính xác suất của sự kiện trong các hệ thống có cấu trúc rất rõ ràng (ví dụ: một đồng xu có hai mặt), lý thuyết xác suất có thể cung cấp các kết quả không mơ hồ và không có mâu thuẫn. 5. Các Phép Toán Trừu Tượng Tuyệt Đối (Như Các Phép Toán Thực Hiện Với Bộ Dữ Liệu Nhỏ) Nếu bạn làm việc trong các môi trường mà các phép toán được thực hiện trên một bộ dữ liệu hoàn chỉnh và không có yếu tố ngoại vi, có thể có cảm giác rằng mọi phép toán có thể được hiểu rõ và kiểm soát hoàn toàn. Chứng minh và hiểu biết hoàn toàn: Các hệ thống dữ liệu rất nhỏ và rõ ràng, nơi không có yếu tố ngẫu nhiên hoặc thay đổi bên ngoài, có thể đưa ra cảm giác rằng có thể hiểu rõ và chứng minh hoàn toàn các kết quả, ít nhất trong một phạm vi hẹp. Tuy nhiên, có thể cảm thấy rằng trong một số lĩnh vực có thể áp dụng trong cuộc sống hàng ngày, như số học đơn giản, logic hình thức, hay lý thuyết xác suất cơ bản, con người có thể hiểu và chứng minh một cách hoàn chỉnh và rõ ràng mà không gặp phải những giới hạn như trong các hệ thống phức tạp hơn. Những lĩnh vực này có thể cung cấp cái nhìn về cách thức hiểu biết con người có thể đầy đủ trong phạm vi hẹp và rõ ràng và có thể sử dụng được một cách an toàn trong cuộc sống hàng ngày, mặc dù trong một bối cảnh rộng lớn hơn, vẫn có sự hiện diện của những giới hạn mà Gödel đã chỉ ra.
@ Theo tôi, Gödel không phải là “ông tổ” trực tiếp của lập trình, nhưng ông là người cha lý thuyết của khoa học máy tính, một lĩnh vực mà lập trình là phần cốt lõi. Không có các ý tưởng của ông, lập trình hiện đại có thể sẽ không tồn tại như ngày nay. Gödel là nguồn cảm hứng trực tiếp cho Alan Turing, người đã mở rộng các ý tưởng của ông để phát triển khái niệm máy Turing-một mô hình lý thuyết về máy tính. Turing đã sử dụng logic của Gödel để chứng minh bài toán Halting Problem là bất khả thi. • Gödel đặt nền tảng lý thuyết: Những ý tưởng của ông về tính không thể quyết định và tính đệ quy đã trở thành cốt lõi trong lý thuyết tính toán và lập trình. • Alan Turing là “ông tổ” gần gũi hơn: Vì ông đã chuyển hóa những ý tưởng của Gödel thành các mô hình máy tính lý thuyết, dẫn đến sự ra đời của lập trình. Và tiếp theo sau là Von Neumann, người thiết kế kiến trúc máy tính hiện đại dựa trên nguyên lý máy Turing. • Máy Turing được xem là cơ sở của ngành khoa học máy tính và lập trình. • Gödel đã giới thiệu đánh số Gödel để mã hóa các công thức toán học thành số nguyên. Ý tưởng này tương tự như việc mã hóa dữ liệu và chương trình trong máy tính. • Cách mã hóa này là tiền thân của các ý tưởng về đệ quy và chương trình tự tham chiếu trong lập trình.
@botter097 Tôi không chắc bạn có đang tìm kiếm một giấy chứng nhận của một tổ chức nào đó, mà nội dung ghi trên chứng nhận đó đại ý là: "Alan Turing là ông tổ của ngôn ngữ lập trình hay khoa học máy tính" hay không ? Nếu thực sự bạn kiếm tìm điều đó, thì trong khuôn khổ sự hiểu biết của tôi, câu trả lời là không. Tuy nhiên, tôi chỉ cho bạn vài thông tin như sau. Bạn hãy tự tham khảo để bạn tự suy nghĩ/ tìm kiếm bạn câu trả lời thỏa mãn bạn nhé: 1. Giải thưởng Alan Turing - Turing Award Giải được đặt theo tên Alan Turing để vinh danh đóng góp của ông. Về mức độ uy tín thì, Association for Computing Machinery (ACM) là tổ chức học thuật và chuyên nghiệp lâu đời nhất và có tầm ảnh hưởng nhất trong lĩnh vực khoa học máy tính trên toàn cầu, được thành lập năm 1947. awards.acm.org/turing. Hệ thống giải thưởng của ACM có 3 giải: - ACM Turing Award: Vinh danh những đóng góp xuất sắc nhất, mang tầm vóc lịch sử trong lĩnh vực khoa học máy tính. - ACM Software System Award: Trao cho những hệ thống phần mềm có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển ngành. - ACM Programming Languages Achievement Award: Công nhận những đóng góp vượt bậc trong các ngôn ngữ lập trình. Trong 3 giải này thì ACM Turing Award là giải cao quý và giá trị nhất. Bạn có thể thấy chỉ có ACM Turing Award là mang tên riêng là "Turing", 2 giải còn lại thì không mang tên riêng của cá nhân nhà khoa học nào cả. 2. Vào năm 2021, Ngân hàng Anh (Bank of England) đã đưa hình ảnh Turing lên tờ tiền 50 bảng Anh. Đây là một vinh dự lớn, ghi nhận Turing không chỉ là một nhà khoa học mà còn là một biểu tượng văn hóa. Alan Turing là một trong số rất ít nhà khoa học, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học máy tính, được vinh danh trên tiền tệ quốc gia như vậy. Hiện nay, không có nhà khoa học máy tính nào khác đạt được vinh dự tương tự trên quy mô quốc tế.
Không cái gì có thể tự thân xác định chính nó một cách độc lập được, mà đều phải dựa vào những cái khác ngoài nó. Đức Phật đã phát biểu về nguyên lý duyên sinh từ 2500 trước rồi :"Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không, cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt".
@@finnfinn8692 mà dù Phật có nói hay không, thì nguyên lý duyên sinh đó vẫn là chân lý. Bạn không thể tìm được bất kỳ chỗ sai nào của nguyên lý duyên sinh này.
@@finnfinn8692 định lý bất toàn là 1 trường hợp cụ thể của nguyên lý duyên sinh thôi mà. Toán học không thể tự giải quyết mọi vấn đề của nó, mà phải dựa vào những thứ bên ngoài toán học.
Ngắn gọn nhé: trước năm 2000 thì nếu nhập 23/11/24 thì máy tính sẽ tự động hiểu là năm 1924!… Hồi đó người ta cảnh báo là sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng khôn lường trong nhiều lĩnh vực! Về sau thực tế thì không có sự cố gì lớn!
Nói máy tính không thông minh hơn con người cũng đúng, nhưng vì tất cả những nhận thức của con người gần như hiện tại đều có trên mạng và máy tính đều có thể xử lý, vì vậy máy tính vẫn có khả năng không tuân theo định luật bất toàn, do nó lấy kiến thức từ bên ngoài. Vì vậy khả năng máy tính thống trị ngược lại con người vẫn có thể xảy ra.
Bàn về đề tựa của video này, chủ kênh dùng những từ như ông tổ của ngôn ngữ lập trình trong khoa học máy tính có thể khiến tranh cãi xảy ra. Vì nếu xét về ngữ nghĩa thì ông tổ (hay nghĩa nào đó có thể là cha đẻ) thì có nghĩa là nếu không có người đó, thì ngôn ngữ lập trình sẽ không được sinh ra. Nếu dựa trên tư duy này, thì chưa có bất kỳ một bằng chứng nhận nào của một tổ chức đủ uy tín nào trên thế giới có ghi nội dung đại khái là "Ông A là cha đẻ/ông tổ/ cụ tổ của ngôn ngữ lập trình cả" Do đó, trong nội dung của video này có thể coi sự đề cao của GS Hưng về Godel là ông tổ của khoa học máy tính nói chung và ngôn ngữ lập trình nói riêng là một sự chủ quan của ông ấy. Nó không nên được coi là một mệnh đề xác thực chính thống. Tuy nhiên, tôi sẽ gợi ý một số thông tin tham khảo như sau để các bạn tự đánh giá và tư duy thêm: Nếu xét ngôn ngữ lập trình là một ngành con, một phần quan trọng của ngành khoa học máy tính, thì Alan Turing có thể được vinh danh là người có sức ảnh hưởng lớn nhất của thế giới. Dù rằng cũng không có bất kỳ một giấy chứng nhận của một tổ chức uy tín nào được trao cho ông với nội dung đại khái "Alan Turing là cha đẻ/ ông tổ/ cụ tổ của khoa học máy tính" cả. Tuy nhiên có vài sự ghi nhận rất đáng chú ý về Alan Turing như sau mà chưa có bất kỳ nhà khoa học máy tính nào khác có thể sánh ngang với ông. 1. Giải thưởng Alan Turing - Turing Award Giải được đặt theo tên Alan Turing để vinh danh đóng góp của ông. Về mức độ uy tín thì, Association for Computing Machinery (ACM) - tổ chức đứng ra trao giải này là tổ chức học thuật và chuyên nghiệp lâu đời nhất và có tầm ảnh hưởng nhất trong lĩnh vực khoa học máy tính trên toàn cầu, được thành lập năm 1947. awards.acm.org/turing. Hệ thống giải thưởng của ACM có 3 giải danh giá nhất mà liên quan trực tiếp nhất đến khoc học máy tính và ngôn ngữ lập trình/phần mềm. Có thể xét trên tiêu chí đánh giá của tổ chức họ, hoặc dựa trên giá trị tiền thưởng của giải và sự lâu đời, truyền thống của giải. - ACM Turing Award: Vinh danh những đóng góp xuất sắc nhất, mang tầm vóc lịch sử trong lĩnh vực khoa học máy tính. - ACM Software System Award: Trao cho những hệ thống phần mềm có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển ngành. - ACM Programming Languages Achievement Award: Công nhận những đóng góp vượt bậc trong các ngôn ngữ lập trình. Trong 3 giải này thì ACM Turing Award là giải cao quý và giá trị nhất - người ta hay coi nó là giải Nobel trong lĩnh vực khoa học máy tính. Bạn có thể thấy chỉ có ACM Turing Award là mang tên riêng là "Turing", 2 giải còn lại thì không mang tên riêng của cá nhân nhà khoa học phần mềm hay ngôn ngữ lập trình nào cả. 2. Vào năm 2021, Ngân hàng Anh (Bank of England) đã đưa hình ảnh Turing lên tờ tiền 50 bảng Anh. Đây là một vinh dự lớn, ghi nhận Turing không chỉ là một nhà khoa học mà còn là một biểu tượng văn hóa. Alan Turing là một trong số rất ít nhà khoa học, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học máy tính, được vinh danh trên tiền tệ quốc gia như vậy. Hiện nay, không có nhà khoa học máy tính nào khác đạt được vinh dự tương tự trên quy mô quốc tế.
Định lý Bất Toàn nói cho đơn giản : Không gì là không thể trong một thế giới không gì chắc chắn đúng sai, cái này phụ thuộc cái khác, cái diễn ra luôn nhiều hơn cái đã biết, cái đã biết luôn nhiều hơn cái đã hiểu, cái đã hiểu luôn nhiều hơn cái đã chứng minh. Những ví dụ của giáo sư có thể khó hiểu nếu chưa trải qua, còn trải qua rồi thì không diễn đạt như cách của giáo sư.
Rất cảm ơn Giáo Sư! Em đã học qua hai trường đại học 1 trường về kỹ thuật,một trường về kinh tế nhưng thật sự có rất nhiều kiến thức mà giờ mới được biết đến nhờ bài nói chuyện của GS và nó ảnh hưởng tích cực rất nhiều đến tư duy của em!
Xin cảm ơn ekip Nhận Thức Mới, GS Phạm Việt Hưng qua một series mà em chỉ muốn nói là tuyệt vời, thật may mắn khi được tham gia vào nó, được lắng nghe và suy nghĩ. Tư duy và nhận thức về cuộc sống, cách nhìn thế giới của bản thân em được mở mang, nhất là sự thay đổi về những câu hỏi nền tảng của mình. Hy vọng kênh sẽ được nhiều người biết đến hơn, và rất đón chờ những tập nối tiếp / các dự án tiếp theo ạ.
Giáo sư vô cùng uyên bác, gần gũi, và cũng rất khiêm nhường. Cảm ơn bác và chương trình đã mang khoa học đến với đại chúng một cách đầy thân thiện.
Thật ko phí công mình đã bỏ ra 4-5 tiếng để xem.
MC dám hỏi câu khó, Giáo sư cũng ứng đối được ngay, càng thể hiện được sự đáng tin cậy của những tri thức được chia sẻ. Rất hay, cám ơn chương trình!
Giáo sư quá đỉnh! Càng hiểu về Toán học, hệ logic ta càng thấy thế giới, con người phức tạp và kì diệu thế nào. Những hiện tượng tự nhiên không đơn thuần được mô hình thành hệ thống số hay toán học mà nó còn có thể là cảm xúc và trực giác. Cuối cùng thì hệ thống máy móc cũng chỉ là những công cụ cho con người để thể hiện những tác vụ không tưởng trong một phạm vi nhất định, tư duy của chúng ta mới là trên hết!
1h-2h sáng ngày 27/11/2024 rồi bây giờ ngay buổi trưa cùng ngày đây tôi ngồi xem full toàn bộ chương trình vì cuốn quá. Nếu phương trình thực sự quan trọng thì Nikola Tesla đã ko thể phát minh ra hàng nghìn công trình chỉ bằng cách nằm mơ rồi thức dậy vẽ ra giấy rồi, ônh ấy tuyên bố tôi ko cần phương trình. Toán học, vật lý thực ra là cách thức con người diễn tả trực giác của mình ra mà thôi. Còn đối với những người chưa có trực giác ấy thì sử dụng công thức để đạt được mục đích. Rất cần những chương trình như thế này up lên ạ thay vì xem tóp tóp gái xinh 😊
Ngoài Halting Problem, Định lý Bất toàn của Gödel, và Nguyên lý Bất định Heisenberg, còn nhiều định lý, nguyên lý và hiện tượng trong tự nhiên cũng chỉ ra giới hạn của nhận thức và nhấn mạnh rằng vũ trụ vượt xa tầm tư duy hiện tại của con người.
Những khái niệm này thường trực tiếp hoặc gián tiếp thể hiện sự phức tạp, bất định, và không thể lường trước của thực tại.
Dưới đây là một số ví dụ nổi bật:
1. Định luật Nhiệt động lực học thứ hai (Second Law of Thermodynamics):
Nội dung: Entropy (một thước đo của sự hỗn loạn hoặc bất trật tự) trong một hệ kín luôn tăng, trừ khi có sự can thiệp từ bên ngoài. Điều này dẫn đến sự suy tàn không thể tránh khỏi của mọi hệ thống cô lập (từ các ngôi sao đến vũ trụ).
Ý nghĩa triết học:
Định luật này chỉ ra rằng sự trật tự và tổ chức chỉ là tạm thời, và hỗn loạn là xu hướng tự nhiên của mọi hệ thống. Vũ trụ dường như đang tiến dần đến trạng thái "chết nhiệt" (heat death), khi mọi quá trình năng lượng chấm dứt.
Điều này gợi ý rằng con người, dù nỗ lực bao nhiêu, không thể thoát khỏi quy luật tự nhiên này. Sự bất lực trước entropy làm nổi bật giới hạn của khả năng kiểm soát của chúng ta.
2. Hiệu ứng Con bướm (Butterfly Effect) và Lý thuyết Hỗn loạn (Chaos Theory):
Nội dung: Trong các hệ thống phi tuyến tính, những thay đổi nhỏ trong điều kiện ban đầu có thể dẫn đến những kết quả không thể đoán trước.
Ví dụ: Một con bướm đập cánh ở Brazil có thể gây ra một cơn lốc ở Texas.
Ý nghĩa triết học:
Lý thuyết hỗn loạn cho thấy rằng ngay cả trong những hệ thống tưởng như có trật tự, sự bất định vẫn ẩn chứa. Con người có thể không bao giờ đạt được khả năng dự đoán hoàn hảo, bởi ngay cả các biến số nhỏ nhất cũng có thể ảnh hưởng sâu sắc.
Đây là một biểu tượng của sự không kiểm soát được thực tại, cho thấy thế giới vượt quá khả năng tính toán và dự đoán của chúng ta.
3. Nguyên lý Toàn ảnh (Holographic Principle):
Nội dung: Nguyên lý này, xuất phát từ lý thuyết dây và vật lý lượng tử, gợi ý rằng toàn bộ thông tin trong một vùng không gian (ví dụ như bên trong một hố đen) có thể được mã hóa trên một bề mặt hai chiều ở ranh giới của vùng đó.
Điều này ngụ ý rằng thực tại ba chiều mà chúng ta cảm nhận có thể chỉ là "ảo ảnh" của thông tin hai chiều.
Ý nghĩa triết học:
Nguyên lý toàn ảnh làm lung lay quan niệm truyền thống của chúng ta về không gian và thực tại, cho thấy rằng những gì chúng ta "thấy" và "cảm nhận" có thể chỉ là một phần nhỏ của một thực tại lớn hơn mà chúng ta không thể tiếp cận.
4. Nguyên lý Bổ sung (Complementarity Principle) của Niels Bohr:
Nội dung:
Trong cơ học lượng tử, một hạt có thể biểu hiện tính chất hạt hoặc sóng tùy thuộc vào cách nó được quan sát. Hai trạng thái này không thể cùng tồn tại trong cùng một phép đo, nhưng đều là những khía cạnh bổ sung của một thực thể duy nhất.
Ý nghĩa triết học:
Nguyên lý này cho thấy thực tại không thể được hiểu chỉ bằng một lăng kính hoặc hệ quy chiếu duy nhất. Nó phụ thuộc vào cách chúng ta quan sát. Điều này thách thức ý niệm rằng thực tại tồn tại độc lập và tách rời khỏi quan sát của chúng ta.
5. Định lý Bell (Bell's Theorem) và Rối lượng tử (Quantum Entanglement):
Nội dung: Định lý Bell chứng minh rằng nếu lý thuyết lượng tử là đúng, thì thực tại không thể chỉ dựa trên các biến ẩn cục bộ. Thay vào đó, các hạt có thể liên kết với nhau theo cách tức thời vượt qua khoảng cách không gian (rối lượng tử).
Ý nghĩa triết học:
Rối lượng tử thách thức trực giác của chúng ta về không gian, thời gian, và tính cục bộ của thực tại. Nó cho thấy rằng thực tại có một tính chất phi định xứ (non-locality), vượt ra khỏi nhận thức thông thường. Điều này khiến chúng ta đặt câu hỏi liệu thực tại có mang tính liên kết sâu sắc hơn nhiều so với những gì chúng ta tưởng.
6. Giả thuyết Đa vũ trụ (Multiverse Hypothesis):
Nội dung: Lý thuyết này gợi ý rằng có thể tồn tại vô số vũ trụ khác nhau, mỗi vũ trụ có các hằng số vật lý và quy luật khác nhau.
Trong một số mô hình, những sự kiện mà chúng ta coi là ngẫu nhiên (chẳng hạn như lượng tử) có thể được giải thích bởi các lựa chọn xảy ra đồng thời ở các vũ trụ song song.
Ý nghĩa triết học:
Giả thuyết đa vũ trụ làm mờ đi khái niệm "thực tại duy nhất". Nếu có vô số thực tại, thì câu hỏi về ý nghĩa, mục đích, và tính xác định của "vũ trụ" chúng ta cũng trở nên mơ hồ hơn.
7. Hiệu ứng Quan sát viên (Observer Effect):
Nội dung: Trong cơ học lượng tử, việc quan sát một hệ thống có thể thay đổi trạng thái của hệ thống đó. Ví dụ: sự can thiệp của người quan sát ảnh hưởng đến hành vi của một hạt.
Ý nghĩa triết học:
Hiệu ứng này cho thấy thực tại không thể được hiểu mà không tính đến vai trò của người quan sát. Nó đưa ra một viễn cảnh rằng nhận thức của con người không chỉ là công cụ để hiểu thực tại mà còn là một phần tạo nên thực tại đó.
8. Lý thuyết Số học Siêu việt (Transcendental Number Theory)
Nội dung: Trong toán học, các số siêu việt (như π và e) không bao giờ có thể được biểu diễn như nghiệm của bất kỳ phương trình đại số nào với hệ số hữu tỉ. Những số này dường như là "ngoại lệ" trong thế giới toán học.
Số lượng số siêu việt là vô hạn
Ý nghĩa triết học:
Sự tồn tại của các số siêu việt chỉ ra rằng, ngay cả trong một hệ thống tưởng như hoàn chỉnh như toán học, cũng có những yếu tố vượt ra ngoài khả năng nắm bắt đầy đủ của chúng ta. Điều này tương tự với Gödel: chúng ta không thể định nghĩa trọn vẹn tất cả trong một hệ thống đơn lẻ.
9. Định lý Không có Bữa Trưa Miễn Phí (No Free Lunch Theorem) trong Machine Learning của lĩnh vực AI
Nội dung: Định lý này nói rằng không có thuật toán tối ưu nào có thể giải quyết tất cả các vấn đề tối ưu hóa. Một thuật toán có thể tốt trong một ngữ cảnh nhưng lại kém hiệu quả trong một ngữ cảnh khác.
Ý nghĩa triết học:
Điều này phản ánh rằng không có giải pháp "hoàn hảo" nào trong việc hiểu vũ trụ hoặc giải quyết vấn đề trong thế giới thực. Giống như Gödel và Heisenberg, đây là một lời nhắc nhở về những giới hạn của các hệ thống cố gắng đưa ra những câu trả lời phổ quát.
10. Định luật Tự Tương Đồng trong Tự Nhiên (Self-Similarity and Fractals)
Nội dung: Trong hình học fractal, các mẫu tự nhiên thường xuất hiện giống nhau ở mọi cấp độ (ví dụ: cấu trúc của cây, mạch máu, hoặc hình dạng của sông suối).
Ý nghĩa triết học:
Khái niệm này gợi ý rằng các hệ thống phức tạp có thể ẩn chứa các quy luật đơn giản lặp lại, nhưng chúng ta có thể không bao giờ hiểu được toàn bộ quy luật vì chúng kéo dài vô hạn. Điều này phản ánh giới hạn trong cách chúng ta tiếp cận thực tại - tương tự như Gödel hoặc Nguyên lý Bất định.
10. Paradox của Zeno (Zeno's Paradoxes)
Nội dung: Các nghịch lý của Zeno, chẳng hạn cuộc thi chạy giữa"Achilles và Con Rùa," chỉ ra rằng chuyển động dường như là không thể khi bạn chia nhỏ nó thành vô hạn các phần.
Ý nghĩa triết học:
Những nghịch lý này thách thức trực giác của chúng ta về không gian, thời gian và chuyển động, gợi ý rằng thực tại có thể không hoạt động theo cách mà chúng ta hiểu. Nó đặt ra câu hỏi tương tự như Gödel và Halting Problem về sự tồn tại của giới hạn trong nhận thức.
11. Nguyên lý Tối thiểu Hành động (Principle of Least Action)
Nội dung: Trong vật lý, mọi hệ thống tự nhiên tiến triển theo cách tối thiểu hóa hoặc tối ưu hóa một đại lượng gọi là "hành động". Đây là một nguyên tắc nền tảng trong cơ học cổ điển, lượng tử và tương đối.
Ý nghĩa triết học:
Ý tưởng này dẫn đến câu hỏi: tại sao tự nhiên "chọn" con đường tối ưu nhất? Nó gợi mở một khái niệm về sự "thông minh" hoặc "hài hòa" vốn có trong vũ trụ, nhưng bản thân cơ chế quyết định này vẫn vượt ra ngoài sự hiểu biết của chúng ta.
Hay quá, cám ơn bạn
Hay 😊
Nhiều bạn dùng chat AI để đưa ra nhận định mà kiến thức chưa đủ để thẩm định thì comment như là ghi nhảm
Bác viết quá tâm huyết, hay quá ạ
Cảm ơn câu kết quá hay!
Triết mà không biết toán là Triết mù! Toán mà không Triết là toán tử! Nhưng nếu không Triết không toán đúng là hoạn!
❤❤❤
Biết thì nó bổ trợ không biết thì nó vẫn tồn tại . Toán học nó vẫn tồn tại xung quanh cuộc sống , có thể biểu diễn bằng tượng hình cũng được , vì dụ : 1 thì biểu diễn 1 que , thì đây cũng coi là tính thực tiễn không mang tính chất triết học . Toán có mối quan hệ chặt chẽ với triết học trong việc khám phá các nguyên lý, khái niệm và lý thuyết cơ bản.
Bác giảng hay thật, trơn tru, dễ hiểu, nghe rất lọt tai
Cảm ơn gs Hưng và chương trình! Những hình ảnh như tam Giác đó. Có khi là một cầu thang! Tôi thường thấy trtrong giấc mơ! Và cứ nghĩ rằng mình bị bế tắt trong suy nghĩ, nên nằm mơ như vậy !
Này thì đã rõ!
❤❤❤
Cảm ơn Mạng Xã hội Trên Diện Rộng Thời Nay Đã Kịp Góp Phần Làm Cho Thế Giới Trở Nên Thật Đáng Sống để ông tổ ngôn ngữ lập trình thật trở nên hữu dụng
Cảm ơn Chương trình Với Mc & Khách Mời từ NTM 👌😁👍🏻🎄
Cám ơn GS có bài chia sẻ khá hay, nhưng có 4 vấn đề sau:
1. Chủ đề về thông tin mà nói có thiên hướng về vật chất (máy tính).
2. Có thiên hướng về tôn giáo.
3. Đề cao Định lý Godel hơn mức thực sự.
4. AI hiện nay là lập trình để máy học chứ không phải lập trình theo bài toán, nên một số khẳng định của GS có thể sai.
Nhờ giáo sư mà mình được khai sáng. Đúng là một người quá tuyệt vời
Cảm ơn sự nhiệt huyết của Giáo Sư❤❤
Tôi là ngừi tiếp chiu đầu tiên ...haha rất vui khi nghe bản thuyết trình hàng đầu...!
Cảm on bac nhiều lắm! C hiểu tư tưởng bao trùm của bác ( người độc hành)
Rất hay!... Cảm ơn Giáo Sư và kênh Nhận Thức Mới
theo dõi từ tập 1, thật sự giáo sư trình bày rất cuốn hút
Điều hơi lạ là đến bây giờ người ta mới mời bác Hưng lên chương trình hẳn hoi. Bác đã viết ít nhất cũng hơn 10 năm về những nội dung này. Triết học và khoa học VN đang rất cần những chia sẻ của bác để đi kịp thế giới.
cám ơn gs và chương trình về những tư tưởng rất thú vị !
Một chương trình thật bổ ích
Xin cảm ơn rất nhiều
Cảm ơn chương trình
❤ Cảm ơn giáo sư Phạm Việt Hưng và kênh NTM.
Chúc sức khỏe và thành công 🌹👍
giáo sư thật uyên bác
khoa học máy vi tính dựa trên các bước sau đây :
1. mã hóa các con số
2. hệ thống mã hóa này được đặt trên căn bản nhị nguyên "binary"
chỉ dùng 1 và 0
3. các phép tính được sáng tạo để làm các phép tính và giải các phương trình toán
4. các con chữ cũng được mã hóa, ... các câu, cú pháp, ý cũng được mã hóa
5. các phép so sánh được hoàn chỉnh - để tạo chương trình thông dịch giữa các ngôn ngữ
6. từ so sánh, các phép liên kết được tạo ra để tìm thông tin, từ đó tạo ra "trí tuệ nhân tạo"
- một phương pháp "giăng lưới" để kết nạp và trình bày thông tin, giống như tác phẩm của con người
nhận xét :
máy tính rất giỏi làm các phép tính lặp đi lặp lại - nó hơn con người ở chỗ "làm tính nhanh" và "rộng"
do đó nó đã "đánh bại" con người trong cờ vua (chess) vì cờ vua chỉ là trò chơi "tính toán"
- càng tính "nhiều, và phức tạp" lại càng nắm ưu thế
tuy nhiên :
âm nhạc không phải là "phép tính" mà nó dùng để biểu cảm "nét đẹp" của thế giới âm thanh
mà nét đẹp của nhạc (hay hội họa, nghệ thuật) đến từ
những "cảm xúc, cảm hứng, trực giác hay khai mở" siêu nhiên - mà máy tính "không thể có được" ...
có những cõi nguồn "không biết trước được" và do đó "không thể lập trình"
bằng các động tác "vô hồn, máy móc" !
kết luận :
máy vi tính không thể được "lập trình" để trở thành ... thi sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ hay nghệ sĩ các ngành
trí tuệ nhân tạo, AI, chỉ là sản phẩm của "vỗ máy vô tri",
tuy nó có thể cho ra những thông tin đã được lưu trữ và mã hóa của loài người và có vẻ như giống "con người" ...
Rất hay xin cảm ơn
32:00 ôi bài toán tháp Hà Nội. Hồi mới học lập trình thấy cách làm mò mẫm không ăn thua, mà đọc được lời giải lập trình theo Pascal phải thốt lên sao tài vậy, tự hỏi không biết chương trình này có chạy được không ta?
Tất cả đều được Đấng Sáng Tạo thiết kế hoàn hảo, bất cứ hệ thống nào từ thực vật cho đến những thứ bên ngoài vũ trụ dẫn đột biến đều gặp “vấn đề lớn”. Loài người đang trên đường đi đến sự diệt vong, vì bản chất ngày càng gặp “lỗi”.
Like this statement from the prof :" Sự thật và hiện thực nó tồn tại khách quan đối với bạn." Hay nói cách khác đi là sự thật nó tồn tại bất kể bạn có tồn tại hay không.
Quá hay giáo sư ơi
Một điểm chung của các nhà toán học là dường như đang cố gắng quy tắc hoá phương cách hoặc cách suy luận logic để tránh đi vào nghich lý.
Những bộ quy tắc logic để diễn đạt tránh nghịch lý chỉ thể hiện rằng các nhà toán học đang cố gắng sắp đặt mọi thứ trong 1 phạm vi quy định cố hữu nào đó theo tư duy của con người.
Nhưng họ không thể chứng minh rằng vì sao buộc phải đi theo quy tắc đó, hay liệu đó có phải là một bộ quy tắc suy luận logic duy nhất hay không.
Điều này chạm đến ranh giới giữa logic, triết học, và toán học hiện đại. Dưới đây là các phân tích của tôi:
1. Nghịch lý: Một hiện tượng "tự nhiên" hay "do con người"?
(a) Nghịch lý đến từ đâu?
Nghịch lý trong toán học không phải do toán học "phát minh" ra, mà là kết quả của việc con người áp dụng các hệ thống logic để mô tả một thực tại phức tạp. Khi hệ thống logic đó không đủ "mạnh" hoặc không phản ánh đúng bản chất thực tại, nghịch lý xuất hiện như một tín hiệu cho thấy có gì đó "vượt ngoài" khả năng diễn đạt của chúng ta.
Ví dụ:
Nghịch lý Russell trong lý thuyết tập hợp cho thấy cách xây dựng tập hợp "naive" không hoàn toàn chặt chẽ.
Halting Problem và Gödel chỉ ra rằng nghịch lý không chỉ là vấn đề kỹ thuật mà là bản chất của mọi hệ thống logic đủ mạnh.
(b) Quy tắc có phải là giải pháp tuyệt đối?
Sự thật rằng các quy tắc chỉ là cách toán học "kiềm chế" nghịch lý trong một phạm vi nhất định. Nhưng các quy tắc này không chứng minh được rằng chúng là cách duy nhất hay thực sự mô tả toàn bộ bản chất của vô hạn.
2. Nghịch lý: Dấu hiệu của điều gì rộng lớn hơn?
Nghịch lý thường được xem như cánh cửa mở ra những chiều không gian tư duy vượt ngoài logic hiện tại. Điều này đặt ra câu hỏi liệu:
Toán học có phải là ngôn ngữ tối ưu để diễn đạt thực tại?
Có một "ngôn ngữ" khác, vượt trên logic toán học, mà chúng ta chưa khám phá?
Một số nhà triết học và toán học đã suy nghĩ về điều này:
Kurt Gödel: Ông tin rằng toán học, mặc dù không hoàn chỉnh, vẫn kết nối với một thực tại khách quan sâu sắc hơn.
Wittgenstein: Ông cho rằng toán học chỉ là một "trò chơi ngôn ngữ" của con người, không nhất thiết phản ánh thực tại.
Roger Penrose: Đề xuất rằng có một thế giới toán học, thế giới vật lý, và thế giới ý thức, trong đó nghịch lý là dấu hiệu của sự giao thoa giữa chúng.
3. Có phải mọi thứ là "do tư duy con người"?
(a) Toán học có phải là phát minh hay khám phá?
Toán học thường được coi vừa là phát minh (do con người đặt ra các quy tắc), vừa là khám phá (các quy luật tự nhiên có vẻ "phù hợp" với toán học). Nhưng nghịch lý cho thấy:
Có thể có những khía cạnh của thực tại vượt ngoài khả năng nắm bắt bằng toán học.
Con người "chọn" các quy tắc để tránh nghịch lý, nhưng không chắc rằng đó là cách duy nhất hoặc cách tốt nhất.
(b) Một ví dụ: Vô hạn
Vô hạn toán học: Các nhà toán học định nghĩa và "quy tắc hóa" vô hạn để xử lý nó (như lý thuyết tập hợp của Cantor).
Vô hạn tự nhiên: Nhưng trong thực tại (vũ trụ, ý thức), khái niệm vô hạn dường như phức tạp hơn nhiều. Những nghịch lý khi làm việc với chuỗi vô hạn có thể là dấu hiệu rằng toán học chỉ đang tiếp cận "một phần" của bản chất vô hạn.
4. Một số quan điểm triết học liên quan
Lý thuyết tương đối của Einstein: Thời gian và không gian không phải là tuyệt đối, điều này tương tự như cách toán học không thể đưa ra quy tắc tuyệt đối cho mọi thực tại.
Lý thuyết phức hợp (Complexity Theory): Một số hệ thống (như thời tiết, não bộ, hoặc ý thức) có thể không bao giờ được mô hình hóa đầy đủ vì chúng vượt qua khả năng đơn giản hóa của con người.
Hiện tượng luận (Phenomenology): Thế giới không được nhận thức trực tiếp, mà thông qua "lăng kính" của ý thức, và nghịch lý có thể phản ánh giới hạn của lăng kính này.
Nghịch lý là dấu hiệu cho thấy toán học có thể chỉ là một công cụ giới hạn, không phải sự thật tối thượng.
Việc áp dụng quy tắc để tránh nghịch lý không chứng minh rằng các quy tắc đó là toàn diện; chúng chỉ giúp con người xử lý được một phần của thực tại.
Nghịch lý và vô hạn mở ra câu hỏi lớn hơn về sự hiểu biết của con người, và có lẽ chúng ta cần nhiều hơn toán học để giải đáp chúng-có thể là một ngôn ngữ, tư duy, hoặc cách nhìn hoàn toàn mới.
Chương trình rất hay và đầy tính khoa học nhưng hình như được đăng bởi người ít học thì phải! Cuối chương trình chèn quá nhiều QC làm ảnh hưởng đến chất lượng chương trình!
kênh này mới, chưa bật được quảng cáo đâu bạn. Giờ YT chèn quảng cáo vô tội vạ, tôi xem các kênh khác cũng nhiều quảng cáo quá trời.
Mingmom - có thể Đức Phật nói vậy nhưng rất tiếc Phật tử 2500 năm không sử dụng lời dạy đó. Trái lại người phương Tây là những người dẫn đầu về khoa học y v.v, đời sống cao, văn minh và tự do và tôn giáo của họ là Kito giáo - chắc chắn họ dựa vào tôn giáo họ tin. Đây là sự thật và chúng ta nên đặt câu hỏi những gì mình nghe, thấy và suy. Hãy học cái hay của người khác, tôn trong tôn giáo bạn, sống yêu thương và chia sẻ. Chúc bình an.
Mã hóa tiền số liệu có không tuân theo bất toàn không thưa giáo sư?
Giáo sư nghĩ sao về đạo đức trong việc đưa tư duy con người vào hệ thống máy tính? Có nên hay không ạ?
Cách đây 7 năm đã nghe
Người Việt rất nhiều nhân tài . Giáo sư HƯNG là một người như vậy
Bạn đã đọc công trình nào của bác này chưa mà bảo nhân tài
@@abbaab7139 Tôi nhớ không lầm thì bạn có bình luận ở trên, đại ý là, nếu không có Godel thì sẽ có người khác. Tôi chỉ biết nói một chữ cho cuộc đời bạn. Khổ!
@@sunguyen5069 Bạn không quản trị được cuộc đời của bạn thì bạn cảm thấy khổ thôi . Biết mình ở đâu thì cuộc sống thật thú vị . Sinh ra trên đời thật thú vị
Những nhà khoa học xuất chúng thường được thông linh với kho kiến thức vũ trụ akasikc đó là tesla, abe anhstanh
Dạ!
Theo em thì đó là một căn bệnh của suy lường! Có thể làm được nếu!
Dạ!
Xin được giữ lại
❤❤❤❤
con nghĩ tiến bộ của khoa học là sự thục lùi
đời vốn vô ngã, nhưng tham vọng con người cho là có cái ngã và cố đi tìm cái ngã, chính sai lầm ấy dẫn đến khổ
Hiểu vô ngã là gì không vậy ba :)
Godel sinh năm 1906, Samuel Morse sinh năm 1791, mã Morse ra đời rất lâu trước khi Godel được sinh ra. Mã Morse đã rất gần với hệ nhị phân rồi nhưng không được GS nhắc đến.
Câu hỏi "sau này AI tự học có thông minh như con người hay không " thiếu tư duy quá! Tự học thì cũng phải có dữ liệu,tài liệu,thông tin,vậy những thứ ấy computer Tự có chắc?
Ông Godel ít người biết vì đóng góp của ông ít hơn Einstein rất nhiều.Trong lĩnh vực máy tính ông Godel chỉ phát triển thêm những gì các bác học khác đã làm. Cả thế giới này người ta rất giỏi họ biết nên tôn vinh ai và không nên tôn vinh ai một cách quá đáng. Giáo sư quá tôn vinh ông Godel rồi , không nên.
Ước gì những kẻ độc tài hiểu được định lý Godel!
Nhưng nhà lãnh đạo của tương lai GẦN sẽ biết và biết NHIỀU lĩnh vực !!!!!
+ pháp sư Thông Thiên +
Trong xã hội đôi khi nó sinh ra những con người với khả năng vượt trội , như trong đàn chim cũng có con đầu đàn , trong đàn trâu rừng , bò rừng cũng có con đầu đàn . Trong nhóm con người cũng có người vượt lên có tố chất hơn họ có thể trở thành thủ lĩnh , ngày xưa có thủ lĩnh bộ tộc , dần dần thủ lĩnh bộ tộc quy phục các bộ tộc khác thì lên làm vua . Thời hiện đại ngày nay nay thì tài nguyên luôn có hạn , nước nào ( hoặc nhóm nào) cũng muốn dành tài nguyên cho mình , như các tài nguyên nước , dầu mỏ , kim loại quý , nếu không thì Mỹ nó thống trị toàn cầu làm gì nó sinh ra hơn 800 căn cứ quân sự trên toàn thé giới làm gì , Mỹ nó ủy nhiệm đánh Nga làm gì , sao không đánh mấy nước châu Phi cho dễ . Vậy nên nó mới hình thành xã hội . Good
2:03:20 Toán học không thuộc về khoa học tự nhiên (physical science) mà thuộc về khoa học hình thức (formal science), cùng nhóm với logic học, thông tin học, v.v.
Toán, vậy lý, hóa học là khối A khoa học tự nhiên
Nếu bạn nói là "khoa học tự nhiên" thì phải dịch là "Nature Science" - Còn khoa học hình thức, mới chính là "Physical Science"
Có 3 loại khoa học : khoa học toán , khoa học thực nghiệm và khoa học nhân văn . Đây là nhận định của Luận Lý Học ( một phân môn của triết học ) .
giống như tế bào mún nghiên cứu con người ( có điểm cuối nhưng do vô hạn nên định luật godel ra đời )
Thưa gs Hưng
Ông đã từng nghe câu này chưa:
Suy nghĩ mà không dựa vào bất cứ một " cái gì "?
Trân trọng
Tất cả những gì xung quanh con người nhận được, khám phá ra đều được ban cho chứ cái nào tự làm ra được.
Dưới đây là góc nhìn của tôi. Cho phép tôi được phân tích và phản biện luận điểm của bạn theo một cách khách quan, cầu thị và khiêm tốn như sau:
1. Góc nhìn ủng hộ nhận định này:
Tất cả đều đến từ tự nhiên: Những phát minh, khám phá của con người đều dựa trên các yếu tố, quy luật, và tài nguyên đã tồn tại trong tự nhiên.
Con người không thể tạo ra một thứ gì hoàn toàn mới từ hư vô, mà chỉ tái cấu trúc, tổ chức hoặc khám phá những gì đã có.
Ví dụ:
Năng lượng điện được khai thác từ các hiện tượng tự nhiên như sấm sét.
Công nghệ cao cũng dựa trên các vật liệu cơ bản từ trái đất và vũ trụ.
Ý nghĩa triết học: Nhận định này gợi ý rằng con người là một phần của hệ thống tự nhiên và mọi thứ đều phụ thuộc vào sự ban tặng của vũ trụ, tự nhiên hoặc một quyền lực cao hơn (thần linh, Chúa, v.v.).
2. Góc nhìn phản biện:
- Con người sáng tạo dựa trên tư duy và khả năng độc lập:
Dù các nguyên liệu đến từ tự nhiên, nhưng khả năng sáng tạo, tư duy và phát minh của con người là yếu tố độc nhất, không thể chỉ coi là "được ban cho."
Ví dụ:
Einstein phát triển thuyết tương đối không phải là điều có sẵn, mà là kết quả của tư duy logic và tưởng tượng.
Các tác phẩm nghệ thuật, như tranh của Van Gogh hay nhạc của Beethoven, là sản phẩm sáng tạo độc lập của con người, không phải "được ban cho."
- Khám phá là quá trình chủ động có ý thức của con người:
Việc "khám phá" cũng không phải là thụ động.
Con người đã chủ động đặt câu hỏi, xây dựng phương pháp nghiên cứu và tiến hành các thí nghiệm để hiểu vũ trụ. Ví dụ:
Để phát hiện ra DNA, các nhà khoa học đã phải vượt qua nhiều giới hạn tri thức và kỹ thuật.
Du hành vũ trụ là thành tựu dựa vào khả năng tính toán và sáng tạo của con người.
- Khái niệm "được ban cho" là một nhận định mơ hồ, chủ quan, thiếu bằng chứng thuyết phục:
"Được ban cho" ám chỉ rằng có một thực thể hay nguồn lực bên ngoài con người đã cố tình trao tặng mọi thứ.
Điều này không phù hợp trong bối cảnh nhiều phát minh của con người không hề "được ban" mà là kết quả của sự lao động và thử nghiệm không ngừng.
3. Nhận xét công bằng:
Nhận định "Tất cả những gì xung quanh con người nhận được, khám phá ra đều được ban cho" có thể đúng trong ngữ cảnh:
Con người không thể tạo ra nguyên liệu cơ bản hoặc quy luật tự nhiên mà chỉ có thể khám phá và sử dụng chúng.
Sự tồn tại của con người và thế giới có thể được coi như một "món quà" (nếu theo quan điểm tôn giáo hoặc siêu hình).
Tuy nhiên, nó không hoàn toàn chính xác nếu xem xét khả năng sáng tạo, tư duy độc lập và lao động không ngừng nghỉ của con người, những yếu tố đã dẫn đến sự phát triển vượt bậc trong khoa học, nghệ thuật và công nghệ.
@@mikemike4386 Không phải ngẫu nhiên mà sau khi thắng Công Giáo, một số nước phương tây được phép đọc Kinh Thánh và tin Tin-lành bình an thì khoa học mới phát triển nhanh chóng như vậy đâu. Nếu bạn có đủ hiểu biết về Kinh Thánh thì bạn sẽ thấy được là nền tảng tư duy của các nhà khoa học phương tây thời đó là dựa trên nền tảng Kinh Thánh cho dù là họ có biết hay không
Nhân tạo thì không gọi là ban nữa rồi bạn nhé
@@mikemike4386 con người có thể làm mưa nhân tạo . Ở trên nhiều cái bạn nhận định chưa đúng , giống chát GPT trả lời mà bạn không đủ trình độ để thẩm định . Good
Như vậy thì tôi liên tuỏng đến thập nhị nhân duyên của đạo phật: cái này có thì cái kia có....
Vì Vô minh thì tưởng có nhân duyên ,hết Vô minh thi Nhân duyên chỉ là tưởng lầm .
Godel không phải là ông tổ của ngôn ngữ lập trình, ông ấy là nhà toán học. Tuyên bố trên của ông Hưng là sai và gây hiểu lầm.
Người được coi là ‘father of Programming language’ là Ada Lovelace, là người viết ra thuật toán đầu tiên được triển khai trên máy.
Đồng ý với bạn ô ấy chỉ noi theo cảm tính
@@botter097 vậy ông này cố tình phổ biến thông tin sai lệch, gây hiểu nhầm cho nhiều người. Nếu ông này là giáo sư thì cần phải nghiêm túc xem lại những tuyên bố của chính ông.
Ada Lovelace là phụ nữ. Nên nếu mệnh đề đúng nên là "Mother of Programming" :)
Tuy nhiên, danh hiệu "Mother of Programming" không đến từ một cơ quan khoa học uy tín chính thức nào bằng một bằng chứng nhận, hay một văn bản chính thống nào.
Danh hiêu này mang tính biểu tượng và được chấp nhận rộng rãi trong giới khoa học và văn hóa công nghệ nhằm ghi nhận đóng góp của bà trong việc viết chương trình máy tính đầu tiên cho cỗ máy Analytical Engine.
Thay noi dung's ly thuyet ve mo thuan ve streets sau do la su buong troi ke tiep ve su that song thuc tai tam ly phuc tap da tinh cach
Không có GÖDEL thì ngôn ngữ lập trình vẫn cứ ra đời và phát triển thôi , nó phát triển nhanh hay chậm tùy thuộc vào mục đích của những người muốn ngôn ngữ máy tính để làm gì . Good
Nói lời hiển nhiên vậy. Thời thế tạo anh hùng, không abc thì xyz.
Đây bác nói ý là "có thể coi" tức là tùy quan điểm của mỗi học giả. Bản thân người phát minh cũng không thể tưởng tượng được phát minh của mình sẽ được ứng dụng hay đi xa đến đâu trong tương lai, sự vĩ đại là như thế.
@@uchungduong8233 Tìm hiểu về nền toán học cổ trước công nguên nó cũng rất thú vị ( dùng để đo đạc , ruộng vườn ở Trung QUốc , Hy lạp , Ba Tư ( Iran hiện nay ) ) . Nền toán học hiện đại nó phát triển rực rỡ ở Ý thế kỷ 12 , rồi bắt đầu đến người Anh cải cách giáo dục từ thế kỷ 11 là cho người đi ra nước ngoài học tất cả các lạo tốt nhất bên ngoài để đưa về Anh giảng dạy ( Vua Anh cải cách giáo dục ) mãi đến thế ký 14 , 15 nước Anh mới bắt đầu có nhiều thành tựu khoa học , đến thế kỷ 17 - 18 thì người Anh chiếm số đông về số các nhà khoa học , thế ký 15 có Hà Lan , Bồ Đào Nha họ có đóng tàu đi khám phá những miền đất lạ nên khoa học khá phát triển . Pháp và Đức vẫn là cái nôi của văn hóa Châu Âu và nổi bật các nhà khoa học thế kỷ 18 - 19 . Còn nhánh khoa học Nga thì học từ Đức giữa thế kỷ 17 bắt đầu , Nhật thì bắt đầu học ở khoa học từ bên ngoài là phong từ phong trào Duy Tân của Nhật . Trung Quốc thì chon các sinh viên ưu tú gửi đi học nước ngoài cuối thế kỷ 19 giờ họ có đội ngũ khoa học chính cũng từ nhóm 100 này . Sau Này có Singapo và Malai xia nhập khẩu trí thức về giảng dạy tại các trường trong nước . Toán học cũng thường phát triển từ cái đã có phát triển lên , nên kho tàng thư viện là rất quan trọng cho nước nào muốn phát triển khoa học kỹ thuật
Ý kiến của bạn thì mình thấy khá hợp lý nhưng không biết mục đích của câu này là gì, theo mình thì Godel đã có công cực lớn ấy thế mà đến ngay khi mình xem video từ giáo sư mới chợt nhận ra và tìm hiểu, nhận thức thay đổi khá nhiều ngay từ tên định lý của Godel, từ video phân tích thì dễ thấy lĩnh vực máy tính cũng chỉ là 1 khía cạnh, định lý của Godel nó quá sức tưởng tượng nếu nghiên cứu sâu hơn.
@@kc8879 Một bài toán thường có nhiều cách giải . Cứ đặt biến ra để tìm , cứ cho vật , 1 hiện tượng 1 biến rồi mình sẽ phân thích từng biến rồi phân tích sự tồn tại hạy không , tồn tại , tồn tại dưới dạng gì thì nó cũng ra . Phương pháp xác thực biến , thì nó vừa cụ thể vừa chính xác ít bị chung chung , khoang vùng được nó . Mình chỉ đoán bác này hơi ám ảnh bởi câu nói dùng công trình toán học ( 1 công thức ) để giải mọi thứ . Như giải 1 bài toán kinh tế cụ thể thì có thể dùng toán kinh tế + xã hội học + kinh tế chính trị , chứ nếu dùng mỗi toán để giải thì cho ra sai số lớn , hoặc có các biến khác liên quan thì mình đưa vào , biến càng trung thực thi độ chính xác càng cao . Đây mình lấy ví dụ bài toán kinh tế chứ về các loại khác vẫn vậy . Good
Nếu phần mềm không tự chữa lỗi nhưng sinh học không phải phần mềm mà có thông tin vậy không thể so ngang vấn đề. Vậy liệu sinh học tự sửa lỗi vẫn có khả năng.
Não nếu vùng chấn thương mà chưa trầm trọng thì nó chuyển dữ liệu qua vùng khác . Não có vùng tổn thương nhưng nó vẫn hoạt động bình thường . Nếu ngắt dây thần kinh chỉ huy các bộ phận cơ thể lên não thì cơ thể sẽ mất dần các điều khiển các bộ phận , nếu ngắt vùng thần kinh trí nhớ thì sẽ mất trí nhớ
Tình yêu của Chúa là hoàn hảo, chúng ta phải biết rằng chúng ta không thể biết được và Chúa sẽ dìu dắt chúng ta :)
Kinh Thánh cũng do con người viết ra bạn ah và còn có nhiều loại Kinh khác nữa
@@abbaab7139 Dù bạn có tin hay không thì thật vẫn là thật
@@NamTran-ye6gh những người viết ra Kinh Thánh họ viết tạo ra 1 nhân vật vật như vậy mọi người se không cầm thấy , sờ thấy , chạm thấy huyền bí tôn kính ( có thể viết ra từ 1 người có thật ) . Rồi viết Kinh dẫn dắt mọi người tin theo điều đấy , dẫn theo ý thức và đạo đức làm theo lời dạy của chúa , người viết họ có thể đứng sau thao túng dẫn dụ họ sẽ là đướng quyền năng giáo chủ , dẫn mọi người đi theo hướng họ muốn , khi đạo thiên chúa có nhánh đến Nga thì thành Nga giáo thì giáo chủ là Nga Sa Hoàng , rồi có Thập Tự Chinh , Việt Nam thì có cha sứ kêo gọi chúa đã vào Nam kéo theo con chiên vào theo . Bạn phải biết rõ bản chất thực sự của mỗi loại kinh là gì lấy cái gì làm gốc , ai là người được hưởng lợi ích từ việc ra Kinh đấy , trên thế giới nó có hàng chục loại kinh . Các kinh dần nhiều người theo tạo nên Đức Tin tôn giáo , nếu trong xã hội theo Kinh nào đấy mà xã hội bình yên , trật tự thì đều tốt đẹp . Good .
@@botter097 Có thể dựa trên nhân vật có thật , có đạo đức , có trí tuệ , có tình yêu thương con người , đồng loại nhưng người viết thêm mắm muối vào cho nó thần bí , huyền bí , siêu quyền năng để mục đích người viết điều khiển được tín đồ . Đây cũng là hiện tượng khoa học thao túng tâm lý đám đông mà có nhiều tôn giáo áp dụng . Good
@@abbaab7139Chúa là thật, Chúa đã dìu dắt tôi chứ không phải loài người
Tôi đặt một câu hỏi tư duy ngược như sau:
Có lĩnh vực nào trong tự nhiên, tư duy, hoặc trừu tượng mà phủ định định lý godel.
Nghĩa là con người xác nhận/ chứng minh được là hiểu rõ nó hoàn toàn toàn đầy đủ, và không mâu thuẫn.
Theo tìm hiểu của tôi, một số lĩnh vực mà có thể không phủ nhận hoàn toàn Định lý Gödel, nhưng có những đặc điểm mà trong đó, con người cảm thấy khả năng hiểu biết hoàn toàn hoặc chắc chắn là có thể, hay ít nhất có vẻ như không có những giới hạn mang tính Gödel:
1. Các Hệ Thống Toán Học Cơ Bản:
Một lĩnh vực mà có thể có sự cảm nhận rằng có thể "hiểu hoàn toàn" là số học đơn giản loại bỏ đi khái niệm vô hạn (như số nguyên, số thực, phép cộng, phép trừ đơn giản), nơi các phép toán cơ bản không tạo ra các mâu thuẫn.
Mặc dù Gödel chỉ ra giới hạn trong các lý thuyết phức tạp hơn, thì số học cơ bản có vẻ dễ hiểu và không có mâu thuẫn rõ ràng.
Sự hiểu biết hoàn toàn: Các phép toán trong số học cơ bản, như phép cộng và phép nhân, dễ dàng và thường xuyên được chứng minh hoàn toàn. Không có sự mơ hồ hay bất định lớn nào khi chúng ta làm việc với các số nguyên, số thực, và các phép toán cơ bản liên quan đến chúng. Tuy nhiên, với các lý thuyết phức tạp hơn, các vấn đề bắt đầu trở nên khó khăn hơn.
2. Lý Thuyết Logic Tường Minh
Một lĩnh vực có thể "phủ nhận" các giới hạn của Gödel là logic tường minh (hoặc logic hình thức). Đây là một hệ thống hoàn toàn rõ ràng với các quy tắc được định nghĩa rõ ràng, có thể áp dụng một cách chính xác mà không có sự mơ hồ.
Không có sự bất toàn: Trong logic hình thức, khi mọi phép toán và suy luận được thực hiện theo các quy tắc được xác định rõ ràng, không có mâu thuẫn. Mặc dù logic hình thức có thể vẫn phải chịu những giới hạn của Gödel trong các hệ thống mạnh mẽ hơn, nhưng trong các hệ thống đơn giản và thuần túy, sự mâu thuẫn có thể dễ dàng tránh được, và con người có thể hiểu và kiểm soát hoàn toàn các phép toán logic đó.
3. Các Lý Thuyết Toán Học Đơn Giản Nhất
Một ví dụ khác có thể là các lý thuyết toán học không chứa các nguyên lý phức tạp hay bất đồng lớn, như hình học Euclid hoặc các lý thuyết toán học sơ khai, nơi các kết luận và chứng minh có thể dễ dàng xác nhận và kiểm tra mà không có mâu thuẫn lớn.
Hiểu biết hoàn toàn: Trong hình học Euclid (với các tiên đề cơ bản như "một đường thẳng có thể vẽ giữa hai điểm bất kỳ"), có thể có một cảm giác rằng chúng ta có thể hiểu toàn bộ lý thuyết này mà không gặp phải mâu thuẫn nào, đặc biệt khi nó không bao gồm các khái niệm phức tạp hoặc trừu tượng.
4. Lý Thuyết Thực Tế Xác Suất Sử Dụng Quy Tắc Cơ Bản
Một lĩnh vực khác mà có thể tự chứng minh tính đầy đủ là lý thuyết xác suất khi chỉ sử dụng các quy tắc cơ bản và các sự kiện đơn giản, nơi mọi xác suất và dự đoán có thể được xác định rõ ràng mà không gặp phải mâu thuẫn.
Không có sự bất toàn: Trong các trường hợp đơn giản, như khi tính xác suất của sự kiện trong các hệ thống có cấu trúc rất rõ ràng (ví dụ: một đồng xu có hai mặt), lý thuyết xác suất có thể cung cấp các kết quả không mơ hồ và không có mâu thuẫn.
5. Các Phép Toán Trừu Tượng Tuyệt Đối (Như Các Phép Toán Thực Hiện Với Bộ Dữ Liệu Nhỏ)
Nếu bạn làm việc trong các môi trường mà các phép toán được thực hiện trên một bộ dữ liệu hoàn chỉnh và không có yếu tố ngoại vi, có thể có cảm giác rằng mọi phép toán có thể được hiểu rõ và kiểm soát hoàn toàn.
Chứng minh và hiểu biết hoàn toàn: Các hệ thống dữ liệu rất nhỏ và rõ ràng, nơi không có yếu tố ngẫu nhiên hoặc thay đổi bên ngoài, có thể đưa ra cảm giác rằng có thể hiểu rõ và chứng minh hoàn toàn các kết quả, ít nhất trong một phạm vi hẹp.
Tuy nhiên, có thể cảm thấy rằng trong một số lĩnh vực có thể áp dụng trong cuộc sống hàng ngày, như số học đơn giản, logic hình thức, hay lý thuyết xác suất cơ bản, con người có thể hiểu và chứng minh một cách hoàn chỉnh và rõ ràng mà không gặp phải những giới hạn như trong các hệ thống phức tạp hơn.
Những lĩnh vực này có thể cung cấp cái nhìn về cách thức hiểu biết con người có thể đầy đủ trong phạm vi hẹp và rõ ràng và có thể sử dụng được một cách an toàn trong cuộc sống hàng ngày, mặc dù trong một bối cảnh rộng lớn hơn, vẫn có sự hiện diện của những giới hạn mà Gödel đã chỉ ra.
@ Theo tôi, Gödel không phải là “ông tổ” trực tiếp của lập trình, nhưng ông là người cha lý thuyết của khoa học máy tính, một lĩnh vực mà lập trình là phần cốt lõi.
Không có các ý tưởng của ông, lập trình hiện đại có thể sẽ không tồn tại như ngày nay.
Gödel là nguồn cảm hứng trực tiếp cho Alan Turing, người đã mở rộng các ý tưởng của ông để phát triển khái niệm máy Turing-một mô hình lý thuyết về máy tính. Turing đã sử dụng logic của Gödel để chứng minh bài toán Halting Problem là bất khả thi.
• Gödel đặt nền tảng lý thuyết: Những ý tưởng của ông về tính không thể quyết định và tính đệ quy đã trở thành cốt lõi trong lý thuyết tính toán và lập trình.
• Alan Turing là “ông tổ” gần gũi hơn: Vì ông đã chuyển hóa những ý tưởng của Gödel thành các mô hình máy tính lý thuyết, dẫn đến sự ra đời của lập trình. Và tiếp theo sau là Von Neumann, người thiết kế kiến trúc máy tính hiện đại dựa trên nguyên lý máy Turing.
• Máy Turing được xem là cơ sở của ngành khoa học máy tính và lập trình.
• Gödel đã giới thiệu đánh số Gödel để mã hóa các công thức toán học thành số nguyên. Ý tưởng này tương tự như việc mã hóa dữ liệu và chương trình trong máy tính.
• Cách mã hóa này là tiền thân của các ý tưởng về đệ quy và chương trình tự tham chiếu trong lập trình.
@botter097 Tôi không chắc bạn có đang tìm kiếm một giấy chứng nhận của một tổ chức nào đó, mà nội dung ghi trên chứng nhận đó đại ý là: "Alan Turing là ông tổ của ngôn ngữ lập trình hay khoa học máy tính" hay không ?
Nếu thực sự bạn kiếm tìm điều đó, thì trong khuôn khổ sự hiểu biết của tôi, câu trả lời là không.
Tuy nhiên, tôi chỉ cho bạn vài thông tin như sau. Bạn hãy tự tham khảo để bạn tự suy nghĩ/ tìm kiếm bạn câu trả lời thỏa mãn bạn nhé:
1. Giải thưởng Alan Turing - Turing Award
Giải được đặt theo tên Alan Turing để vinh danh đóng góp của ông.
Về mức độ uy tín thì, Association for Computing Machinery (ACM) là tổ chức học thuật và chuyên nghiệp lâu đời nhất và có tầm ảnh hưởng nhất trong lĩnh vực khoa học máy tính trên toàn cầu, được thành lập năm 1947.
awards.acm.org/turing.
Hệ thống giải thưởng của ACM có 3 giải:
- ACM Turing Award: Vinh danh những đóng góp xuất sắc nhất, mang tầm vóc lịch sử trong lĩnh vực khoa học máy tính.
- ACM Software System Award: Trao cho những hệ thống phần mềm có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển ngành.
- ACM Programming Languages Achievement Award: Công nhận những đóng góp vượt bậc trong các ngôn ngữ lập trình.
Trong 3 giải này thì ACM Turing Award là giải cao quý và giá trị nhất.
Bạn có thể thấy chỉ có ACM Turing Award là mang tên riêng là "Turing", 2 giải còn lại thì không mang tên riêng của cá nhân nhà khoa học nào cả.
2. Vào năm 2021, Ngân hàng Anh (Bank of England) đã đưa hình ảnh Turing lên tờ tiền 50 bảng Anh.
Đây là một vinh dự lớn, ghi nhận Turing không chỉ là một nhà khoa học mà còn là một biểu tượng văn hóa.
Alan Turing là một trong số rất ít nhà khoa học, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học máy tính, được vinh danh trên tiền tệ quốc gia như vậy.
Hiện nay, không có nhà khoa học máy tính nào khác đạt được vinh dự tương tự trên quy mô quốc tế.
Người ta nói dễ hiểu vậy mà bạn không hiểu đặt mấy câu hỏi nhảm nhí không @@
Con người là cái gì ?. Trong giáo lý nhà phật sẽ nói rõ vị trí sinh mệnh con nguòi trong vũ trụ này
Giáo lý nhà Phật đã nói rõ sắc sắc không không rồi
Không cái gì có thể tự thân xác định chính nó một cách độc lập được, mà đều phải dựa vào những cái khác ngoài nó. Đức Phật đã phát biểu về nguyên lý duyên sinh từ 2500 trước rồi :"Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không, cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt".
Vì Vô minh thì tưởng có nhân duyên ,hết Vô minh thi Nhân duyên chỉ là tưởng lầm .
đừng nhét chữ vào mồm Phật nữa bạn ơi
@@finnfinn8692 mà dù Phật có nói hay không, thì nguyên lý duyên sinh đó vẫn là chân lý. Bạn không thể tìm được bất kỳ chỗ sai nào của nguyên lý duyên sinh này.
@@mingpom cái gì cũng đúng sai 100% hết thì bạn là nhất rồi, mình thua :)
@@finnfinn8692 định lý bất toàn là 1 trường hợp cụ thể của nguyên lý duyên sinh thôi mà. Toán học không thể tự giải quyết mọi vấn đề của nó, mà phải dựa vào những thứ bên ngoài toán học.
Sự cố năm 2000 là sự cố gì ạ
Ngắn gọn nhé: trước năm 2000 thì nếu nhập 23/11/24 thì máy tính sẽ tự động hiểu là năm 1924!… Hồi đó người ta cảnh báo là sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng khôn lường trong nhiều lĩnh vực! Về sau thực tế thì không có sự cố gì lớn!
Y2k
Con người khám phá ra qui luật vũ trụ, và khám phá ra toán học
Nói máy tính không thông minh hơn con người cũng đúng, nhưng vì tất cả những nhận thức của con người gần như hiện tại đều có trên mạng và máy tính đều có thể xử lý, vì vậy máy tính vẫn có khả năng không tuân theo định luật bất toàn, do nó lấy kiến thức từ bên ngoài. Vì vậy khả năng máy tính thống trị ngược lại con người vẫn có thể xảy ra.
Bàn về đề tựa của video này, chủ kênh dùng những từ như ông tổ của ngôn ngữ lập trình trong khoa học máy tính có thể khiến tranh cãi xảy ra.
Vì nếu xét về ngữ nghĩa thì ông tổ (hay nghĩa nào đó có thể là cha đẻ) thì có nghĩa là nếu không có người đó, thì ngôn ngữ lập trình sẽ không được sinh ra.
Nếu dựa trên tư duy này, thì chưa có bất kỳ một bằng chứng nhận nào của một tổ chức đủ uy tín nào trên thế giới có ghi nội dung đại khái là "Ông A là cha đẻ/ông tổ/ cụ tổ của ngôn ngữ lập trình cả"
Do đó, trong nội dung của video này có thể coi sự đề cao của GS Hưng về Godel là ông tổ của khoa học máy tính nói chung và ngôn ngữ lập trình nói riêng là một sự chủ quan của ông ấy.
Nó không nên được coi là một mệnh đề xác thực chính thống.
Tuy nhiên, tôi sẽ gợi ý một số thông tin tham khảo như sau để các bạn tự đánh giá và tư duy thêm:
Nếu xét ngôn ngữ lập trình là một ngành con, một phần quan trọng của ngành khoa học máy tính, thì Alan Turing có thể được vinh danh là người có sức ảnh hưởng lớn nhất của thế giới. Dù rằng cũng không có bất kỳ một giấy chứng nhận của một tổ chức uy tín nào được trao cho ông với nội dung đại khái "Alan Turing là cha đẻ/ ông tổ/ cụ tổ của khoa học máy tính" cả.
Tuy nhiên có vài sự ghi nhận rất đáng chú ý về Alan Turing như sau mà chưa có bất kỳ nhà khoa học máy tính nào khác có thể sánh ngang với ông.
1. Giải thưởng Alan Turing - Turing Award
Giải được đặt theo tên Alan Turing để vinh danh đóng góp của ông.
Về mức độ uy tín thì, Association for Computing Machinery (ACM) - tổ chức đứng ra trao giải này là tổ chức học thuật và chuyên nghiệp lâu đời nhất và có tầm ảnh hưởng nhất trong lĩnh vực khoa học máy tính trên toàn cầu, được thành lập năm 1947.
awards.acm.org/turing.
Hệ thống giải thưởng của ACM có 3 giải danh giá nhất mà liên quan trực tiếp nhất đến khoc học máy tính và ngôn ngữ lập trình/phần mềm. Có thể xét trên tiêu chí đánh giá của tổ chức họ, hoặc dựa trên giá trị tiền thưởng của giải và sự lâu đời, truyền thống của giải.
- ACM Turing Award: Vinh danh những đóng góp xuất sắc nhất, mang tầm vóc lịch sử trong lĩnh vực khoa học máy tính.
- ACM Software System Award: Trao cho những hệ thống phần mềm có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển ngành.
- ACM Programming Languages Achievement Award: Công nhận những đóng góp vượt bậc trong các ngôn ngữ lập trình.
Trong 3 giải này thì ACM Turing Award là giải cao quý và giá trị nhất - người ta hay coi nó là giải Nobel trong lĩnh vực khoa học máy tính.
Bạn có thể thấy chỉ có ACM Turing Award là mang tên riêng là "Turing", 2 giải còn lại thì không mang tên riêng của cá nhân nhà khoa học phần mềm hay ngôn ngữ lập trình nào cả.
2. Vào năm 2021, Ngân hàng Anh (Bank of England) đã đưa hình ảnh Turing lên tờ tiền 50 bảng Anh.
Đây là một vinh dự lớn, ghi nhận Turing không chỉ là một nhà khoa học mà còn là một biểu tượng văn hóa.
Alan Turing là một trong số rất ít nhà khoa học, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học máy tính, được vinh danh trên tiền tệ quốc gia như vậy.
Hiện nay, không có nhà khoa học máy tính nào khác đạt được vinh dự tương tự trên quy mô quốc tế.
Nếu phần mềm tự chữa lỗi thì con người đâu phải vá lỗ hổng phần mềm do con người tạo ra
MC nên lắng nghe. Bớt nói thôi để cho giáo sư giảng. MC toàn thích thể hiện kiến thức
Cảm ơn Nhận Thức Mới, Giáo Sư rất đỉnh, nhưng mà MC có vẻ chưa xứng tầm, kể cả bạn nữ của số trước :(
mang hàm GS cứ té nước theo mưa ,saoko c/ m giả thuyết cho máy tính Alan Turing: Z chống NZ~( Z Z^2+C)?¿
MC bớt nói leo đi, cho gs nói
..Phát biểu linh tinh
Định lý Bất Toàn nói cho đơn giản : Không gì là không thể trong một thế giới không gì chắc chắn đúng sai, cái này phụ thuộc cái khác, cái diễn ra luôn nhiều hơn cái đã biết, cái đã biết luôn nhiều hơn cái đã hiểu, cái đã hiểu luôn nhiều hơn cái đã chứng minh. Những ví dụ của giáo sư có thể khó hiểu nếu chưa trải qua, còn trải qua rồi thì không diễn đạt như cách của giáo sư.
Chúng tôi chả hiểu gì
Vậy có lẽ bạn cần bổ xung thêm mảng kiến thức còn thiếu để hiểu câu chuyện người ta nói gì.