PHÁP THOẠI MỚI NHẤT NGÀY 7/7/2024 | Thầy Thích Pháp Hòa - Tu Viện Tây Thiên Canada

Поделиться
HTML-код
  • Опубликовано: 29 авг 2024
  • PHÁP THOẠI MỚI NHẤT NGÀY 7/7/2024 | Thầy Thích Pháp Hòa - Tu Viện Tây Thiên Canada
    -------------------------------------------
    ✔ Kênh tổng hợp những video, bài thuyết giảng, bài vấn đáp Phật Pháp của Thầy Thích Pháp Hòa
    ✔ Rất Mong Quý Phật Tử Ủng Hộ Đón Xem
    ✔ Hy vọng Phật Pháp màu nhiệm sẽ hướng đường đạo , sống đường đời tránh tội lỗi và qua những sản phẩm văn hóa Phật giáo như bài giảng, bài hát, phim, radio, ký sự, v.v... sẽ giúp mọi người vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, tìm được an lạc trong từng hơi thở, trong mỗi phút giây và tiến đến bến bờ giải thoát.
    ✔ "Cảm ơn quý vị đã luôn đồng hành với Kênh, xin " Chúc quý vị thân tâm thường an lạc, luôn hạnh phúc và thành công trong cuộc sống.
    ------------
    ►Thầy Thích Pháp Hòa sinh năm 1974 tại Cần Thơ, Việt Nam.
    ► Định cư tại Canada năm 12 tuổi, xuất gia năm 15 tuổi.
    ► Thọ Tỳ-kheo tại Pháp Quốc năm 20 tuổi.
    ► Thầy tiếp nhận trách vụ trụ trì TV. Trúc Lâm năm 2006 và TV. Tây Thiên 2007.
    ------------
    Theo dõi fanpage: / thichphaphoafan
    RUclips : bit.ly/2HO3yF1
    Cộng đồng: / 19821. .
    Wedsite: truclam.ca/
    Wedsite Thầy Pháp Hòa: thichphaphoa.ca
    #thaythichphaphoa #thichphaphoa #giangphapthichphaphoa #phapthoaithichphaphoa

Комментарии • 47

  • @nhutupham9675
    @nhutupham9675 Месяц назад +2

    Nam mô bổn sư thích ca mẫu Ni Phật

  • @thuhienle1475
    @thuhienle1475 Месяц назад +1

    Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Dạ, con xin cảm ơn Quý Thầy giảng hay quá 🌹🍀 Quý Thầy hảo tướng quá luôn, Quý Thầy Phúc hậu quá luôn, con kính chúc Quý Thầy an lành, hạnh phúc, thật nhiều sức khoẻ. Nam Mô A Di Đà Phật ❤️🌲😄

  • @LoanNguyen-jd3mc
    @LoanNguyen-jd3mc Месяц назад +1

    Nam mô a Di đà phật 🙏🙏🙏

  • @diepta9495
    @diepta9495 Месяц назад +1

    Nam mô a di đà phật❤

  • @joannesin2106
    @joannesin2106 Месяц назад +1

    Nam Mô A Di Đà Phật

  • @freemodgame7604
    @freemodgame7604 Месяц назад +1

    Nam mô adi đa phât

  • @joannesin2106
    @joannesin2106 Месяц назад +1

    ❤😊

  • @bebavothi3836
    @bebavothi3836 Месяц назад +1

    ❤❤❤ nam mo a di da phat ❤❤❤ nam mo quan the am bo tat ❤❤❤ nam mo bon su thich ca mau ni phat ❤❤❤ con kinh chuc thay cung tat ca dai chung binh an hanh phuc ❤❤❤

  • @thanhxuanvothi3064
    @thanhxuanvothi3064 Месяц назад +3

    ❤ NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT .

  • @user-qv1yo3qe1q
    @user-qv1yo3qe1q Месяц назад

    Phật Pháp và Cuộc Sống : ( đoạn 6 ) :
    16 / Nhẫn nhục có ích gì ?
    Nhẫn nhục, theo nghĩa thông thường, nhẫn là nhịn chịu, nhục là tổn thương, bị sỉ nhục. Nhẫn nhục là chịu nhịn những điều mà người khác sỉ nhục, làm cho xấu hổ; chịu đựng tổn thương trước những việc không vừa lòng, nghịch ý, trái tai gai mắt… nhưng vẫn cố gắng giữ tâm không tức giận, không phản ứng lại và không nghĩ đến việc sẽ báo thù.
    Trong đạo Phật, nhẫn nhục nếu phân chia theo ba nghiệp thì có : thân nhẫn, khẩu nhẫn và ý nhẫn.
    Thân nhẫn là sự chịu đựng của thân trước các hoàn cảnh không vừa ý như nóng lạnh, bệnh tật, đói khát, chỗ ở thiếu tiện nghi, hoặc bị hành hạ đánh đập. Trước những nghịch cảnh như thế, người thực hành thân nhẫn cố gắng chịu đựng không phàn nàn, kêu ca hay bạo động chống trả mà chỉ bình tĩnh giải thích sự việc.
    Khẩu nhẫn là im lặng trước các nghịch cảnh như có người chửi mắng, vu oan, đâm thọc, nói sai sự thật, nói lời khiêu khích v.v… Trước những lời trái tai như thế, người thực hành khẩu nhẫn chỉ từ tốn giải thích trong ôn hòa, dù nghe lời không vừa ý nhưng họ vẫn giữ yên lặng, không giận dữ dùng những lời ác mà đối lại hoặc gây gổ cãi lộn, đánh nhau v.v...
    Ý nhẫn là tâm nhẫn nhục, trước nghịch cảnh mang đến cho thân và trước những lời nói trái tai họ đều kham nhẫn chịu đựng không có ý nghĩ tức giận, thù oán. Luôn giữ tâm buông xả, an định trước mọi thuận nghịch của đời sống.
    Nếu phân chia theo ý nghĩa thì nhẫn nhục có bên ngoài và bên trong.
    Nhẫn nhục bên ngoài nghĩa là vì danh lợi, vì có người khen, vì sợ uy quyền, vì chưa đúng thời điểm, vì chưa có đủ điều kiện phản kháng, vì sức yếu thế cô v.v… nên gắng chịu đựng. Tuy có nhẫn nhục nhưng đó chỉ là sự đè nén. Bất cứ sự chịu đựng nào cũng có giới hạn, khi vượt ngưỡng sẽ bùng vỡ và mang đến hậu quả khôn lường. Theo Phật giáo, nhẫn nhục bên ngoài cũng rất cần, nhưng cần hơn là hướng đến nhẫn nhục thực sự ở bên trong.
    Nhẫn nhục bên trong chỉ thành tựu khi trí tuệ và từ bi của hành giả đầy đủ. Hành giả thấy rõ tất cả pháp đều huyễn hóa vô thường, biết rõ mình và người không phải hai, thấy rõ vì người ta đang khổ ( do vô minh, tham ái, phiền não ) nên mới làm khổ mình, nhờ trí tuệ và từ bi nên hành giả kham nhẫn, chấp nhận và vượt qua tất cả chướng ngại một cách nhẹ nhàng. Nhẫn nhục bên trong một cách trọn vẹn còn được gọi là nhẫn nhục Ba la mật.
    Nhẫn nhục theo Phật giáo không có nghĩa là co mình chịu trận, ai muốn làm gì mình thì làm. Nhẫn nhục là bước đệm kham nhẫn cần thiết để tâm an, trí sáng nhằm giải quyết vấn đề một cách thấu tình đạt lý tiếp theo đó. Không phải ngẫu nhiên mà ông cha ta đã đúc kết kinh nghiệm “ một điều nhịn, chín điều lành ”. Đây chính là lợi ích của nhẫn nhục. Nhẫn nhịn để được “ chín điều lành ” là cách ứng xử đầy khôn ngoan, rất nhân văn và trí tuệ.
    Nhẫn nhục như đã trình bày được ứng dụng trong tất cả các phương diện cuộc sống. Người học Phật rèn luyện đức tính nhẫn nhục như một phẩm hạnh, một kỹ năng sống trước cuộc đời đầy biến động. Tám ngọn gió đời được - mất, nhục - vinh, khen - chê, khổ - vui ( bát phong : lợi - suy, hủy - dự, xưng - cơ, khổ - lạc ) luôn khuấy đảo đời sống của chúng ta. Đối với tất cả những điều trái ý nghịch lòng không phản ứng vội vàng theo bản năng phiền não mà cần bình tĩnh, điềm đạm, suy xét đúng sai rồi mới chọn cách ứng xử thích hợp.
    Vấn đề, trong trường hợp bị dồn vào bước đường cùng, nhẫn nhục có tác dụng gì và cứu giúp được gì ? Như đã nói, tu hạnh nhẫn nhục chính là ứng xử có trí tuệ và từ bi. Hoàn cảnh “ bước đường cùng ” thì chịu đựng cũng chết mà chống lại cũng chết thì vẫn rất cần nhẫn nhục với bi trí để tìm ra con đường sống.
    17 / “ Xem bói ra ma quét nhà ra rác ”
    Bạn nên bình tâm, vận dụng lý trí để nhìn lại toàn bộ vấn đề. Bấy lâu nay gia đình bạn vẫn an yên đó sao, từ khi vị thầy phong thủy phán quàng “ nhà có tà ma khiến gia tiên không vào nhà được, bày đảo bát hương, bỏ cây hương ngoài sân đi và cầu cúng ”… thì tai họa đã đổ ập lên nhà bạn.
    Điều đáng nói ở đây là gia đình bạn đã tin vào cửa Phật, lên chùa nhờ giúp đỡ mà thiếu duyên nên gặp vị thầy ở chùa vốn không khá hơn vị thầy phong thủy kia là mấy, cũng bổn cũ soạn lại bèn phán xiên rằng nhà bạn “ bị động long mạch ở mộ các cụ và có người âm đang trách vì phá bỏ gì đó ”, hoàn toàn phi Chính kiến, không dính dáng gì Chính pháp nhà Phật.
    Rồi bạn lại đi xem bói, thầy bói nói “ bố bị người âm nhập vào quấy phá, và có ông chú không có mộ phần nên quở trách ”. Tiếp tục đi xem bói nữa, bạn được thầy bói phán “ có ông chú mất mộ, còn bố thì bị người âm quấy phá, thêm năm nay là năm hạn của bố nên phải cúng kiếng, cầu đảo ”. Gần đây nhất, bạn lại tìm một thầy pháp chuyên trị tà, thầy nói “ nên yểm đất để gia tiên được vào nhà ”.
    Bạn đã trải qua năm lượt tìm thầy ( thầy phong thủy, thầy ở chùa, hai vị thầy bói, thầy pháp ), các thầy đều phán khá giống nhau, bày vẽ cúng kiếng, trấn yểm ( chủ yếu để kiếm tiền ) và hậu quả là bạn đã hao tốn khá nhiều tiền bạc mà chẳng ích gì, gia đình chỉ thêm hoang mang, bấn loạn hơn mà thôi.
    Bạn đã có lòng thành, mong chúng tôi “ tư vấn theo quan điểm đạo Phật nhằm soi đường dẫn lối cho gia đình ”, thiết nghĩ cũng nên nói thẳng rằng, gia đình bạn đã đi sai hướng trong việc xử lý chuyện gia đình cũng như chữa bệnh cho bố, nên hãy dừng ngay lập tức mọi việc liên quan đến xem coi, bói toán, trấn yểm, cúng kiếng, cầu đảo vì đó là tà kiến, bị lạc dẫn vào mê tín, vì “ xem bói ra ma ” chỉ khiến tiền mất tật mang mà thôi.
    Theo quan điểm Phật giáo, bạn và gia đình đã không đúng khi tin các việc xảy ra trong gia đình có nguyên nhân từ “ người âm quấy phá, bị động long mạch, do năm tuổi hạn của bố... ”. Mặc dù niềm tin này rất thịnh hành trong dân gian nhưng vì có bản chất mê tín nên luôn bị những người xấu lợi dụng, khai thác triệt để nhằm thủ lợi.
    Bạn và gia đình cần thay đổi niềm tin mê mờ này bằng niềm tin nhân quả Phật giáo vốn phân minh, khách quan và khoa học. Mọi kết quả đang xảy ra đều có nguyên nhân, chủ yếu là do biệt nghiệp của mỗi thành viên và cộng nghiệp của cả gia đình. Em của bạn bị nạn đã mất là do nghiệp dĩ của em ấy, bố của bạn bệnh đau là do nghiệp của bố mà hoàn toàn không phải do người âm quấy phá, các cụ quở trách hay do tuổi hạn v.v… tạo nên.
    Vì thế, theo Phật giáo, thương em thì bạn hãy tùy khả năng mà làm các việc lành để hồi hướng phước đức cho em. Thương bố thì lo chạy chữa, thuốc thang cho bố. Nếu đã chạy chữa và thuốc thang mà bố vẫn chưa khỏi thì nên động viên bố hoặc thay mặt bố mà sám hối oan nghiệp trong quá khứ. Sám hối rồi thì việc ác nên bỏ và việc thiện nên làm. Nếu biết quy y Tam bảo để trọn đời tích phước, hướng thiện lại càng quý hóa hơn.
    Nhờ nhận thức đúng nên đã hành động đúng khiến cho phước đức tăng trưởng, nghiệp chướng tiêu trừ, gia đạo của bạn dần an ổn trở lại và sẽ trở nên tốt đẹp, vạn sự cát tường.
    ......

  • @hachu7960
    @hachu7960 Месяц назад +1

    Nam mô bổn sư thích ca mâu Ni Phật con kính chào thầy ạ ❤️

  • @user-qv1yo3qe1q
    @user-qv1yo3qe1q 28 дней назад

    Phật Pháp và Cuộc Sống : Tất cả các Pháp đều là Phật Pháp : ( đoạn 116 ) :
    336 / Hiểu đúng về “ xả bỏ ham muốn ”
    Theo Phật giáo, ham muốn (tham lam, tham ái, tham dục, dục vọng) là phiền não căn bản tồn tại trong tất cả mọi người. Tham ái và vô minh chính là cội nguồn của mọi tranh chấp, khổ đau. Vì lòng tham vốn vô hạn, dục vọng không có điểm dừng nên Phật giáo dạy người phát huy tỉnh thức để chuyển hóa, giảm thiểu và buông xả bớt ham muốn nhằm thiết lập bình an, lợi mình và ích người. Xả ly toàn bộ ham muốn vị kỷ chính là bậc Thánh A-la-hán, hoàn toàn giải thoát sinh tử, khổ đau.
    Vì bản chất của con người là tham-ái-dục nên xả bỏ ham muốn hoàn toàn (ly tham, đoạn tham) là ước vọng, là cứu cánh, còn sống trong đời thường giảm thiểu ham muốn đã là quý hóa lắm rồi. Nói cụ thể, mục tiêu của người Phật tử là buông xả bớt ham muốn, không bo bo vị kỷ, sống san sẻ vị tha để mình và người đều lợi ích, an vui. Nên phải xác định ly tham là mục tiêu sau cùng, bớt tham là mục tiêu hiện tại.
    Ham muốn thì vô cùng, phân loại thì có tham ngũ dục (tiền bạc, sắc đẹp, danh tiếng, ăn uống, ngủ nghỉ), đắm lục trần (đối tượng của sáu giác quan: sắc- cảnh đẹp, thanh- tiếng hay, hương- mùi thơm, vị- ngon ngọt, xúc- êm ái, pháp- những đối tượng của tâm ý). Dĩ nhiên khó có thể đạt được những tham muốn này, thường thì được cái này lại mất cái kia, dù sao thỏa mãn các tham muốn vẫn là hạnh phúc của thế thường. Thực tiễn đời sống phải có ngũ dục (không có là nguy), phải có đời sống dễ chịu (lục trần, ngoại cảnh không chướng nghịch) nhưng quá tham đắm lại là điều không tốt, nhiều mong cầu sẽ phiền não khổ đau.
    Thế nên, người Phật tử cũng có mong muốn chính đáng như sức khỏe, bình an, hạnh phúc; mong muốn đầy đủ phước báo để lợi mình và lợi người. Thực tập buông bớt tham đắm, người Phật tử lập hạnh muốn ít và biết đủ (thiểu dục và tri túc). Muốn ít là vì biết nghĩ đến người, mong muốn được sẻ chia với người nên không gom hết cho mình. Biết đủ là không quá tham cầu, chấp nhận thực tiễn, vui với những gì mình đang có (vì muốn nhiều hơn chưa hẳn đã được mà càng nặng nề, bận tâm thêm).
    Cần phải thấy rõ, các duyên bên ngoài (có vật chất, ngũ dục) chỉ là những điều kiện cần, bình an trong tâm mới là điều kiện đủ cho hạnh phúc, cho chất lượng cuộc sống. Chạy theo ngũ dục mà đánh mất bình an bản thân và gia đình là một sự trả giá quá đắt, một sự thiếu trí tuệ. Cho nên, người Phật tử lập hạnh muốn ít và biết đủ không phải là sự thụ động, kìm hãm sự phát triển kinh tế của bản thân và xã hội mà đó chính là thiết lập sự thăng bằng giữa phát triển vật chất và tinh thần, hài hòa giữa sự thành đạt và bình an.
    337 / Muốn tự học Phật nên bắt đầu từ đâu?
    Đạo Phật trên thế giới hiện có hai truyền thống lớn, đó là Phật giáo Nam tông (Nguyên thủy) và Phật giáo Bắc tông (Phát triển). Trong mỗi truyền thống lại có nhiều tông phái khác nhau. Về căn bản lịch sử và giáo lý, các truyền thống và tông phái Phật giáo đều giống nhau, song bên cạnh đó cũng có một số khác biệt.
    Đặc điểm của Phật giáo Việt Nam là dung hội cả hai truyền thống Phật giáo lớn của thế giới với nhiều tông phái, hệ phái khác nhau. Trước thực tiễn kinh sách Phật học và văn hóa Phật giáo vô cùng phong phú, đa dạng như hiện nay, người tự tìm hiểu Phật pháp sẽ lúng túng và mất thời gian nếu không được định hướng đúng đắn.
    Để tự tìm hiểu, nghiên cứu Phật pháp, thiển nghĩ trước nên tiếp cận từ lịch sử, giáo lý, sau mới đến văn hóa và các phương diện khác của Phật giáo.
    Về lịch sử Phật giáo, bạn có thể bắt đầu với sách Đức Phật lịch sử của Schumenn ( Trần Phương Lan dịch ), sách Đức Phật Gotama của Hajime Nakamura ( Trần Phương Lan dịch ). Đây là hai biên khảo tiêu biểu về lịch sử Đức Phật dựa vào văn bản học và khảo cổ học có uy tín trên thế giới. Bạn có thể tìm hiểu cuộc đời Đức Phật một cách thi vị hơn qua sách Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.
    Ngoài ra, bạn nên tìm hiểu thêm về Phật giáo Việt Nam qua sách Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát và sách Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang ( bút hiệu của Thiền sư Thích Nhất Hạnh ).
    Về giáo lý căn bản, thiển nghĩ bạn nên đọc sách Đức Phật và Phật pháp của Trưởng lão Narada ( Phạm Kim Khánh dịch ), sách Trái tim của Bụt của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, sách Phật học phổ thông của Hòa thượng Thích Thiện Hoa, sách Phật học cơ bản ( Giáo trình do Ban Hoằng pháp Trung ương soạn ).
    Đặc biệt, nếu hội đủ duyên lành bạn nên đọc thẳng vào kinh tạng, Kinh tạng Nikaya ( gồm kinh Trường bộ, kinh Trung bộ, kinh Tương ưng bộ, kinh Tăng chi bộ, kinh Tiểu bộ ) và Kinh tạng A Hàm ( gồm kinh Trường A Hàm, kinh Trung A Hàm, kinh Tăng nhất A Hàm, kinh Tạp A Hàm ). Tất cả giáo lý căn bản, bao gồm cả pháp học lẫn pháp hành đều nằm trọn trong hai bộ kinh này. Về sau, tùy nhân duyên bạn có thể tìm hiểu thêm Luận tạng, kinh Đại thừa, các Sớ chú giải…
    Sách chuyên khảo về văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam… hiện có rất nhiều, bạn cứ tùy duyên tham khảo.
    Về thông tin, bạn có thể đọc và xem tin tức Phật giáo trên Giác Ngộ online ( giacngo.vn ) - Cơ quan ngôn luận của GHPGVN TP.HCM, phatgiao.org.vn - Cổng thông tin điện tử của Ban Thông tin - Truyền thông Trung ương; Phật sự online ( phatsuonline.com ) - Cổng thông tin Văn phòng Trung ương GHPGVN. Ngoài ra, thuvienhoasen.org ( do cư sĩ Tâm Diệu chủ trương ở nước ngoài ) cũng đăng tải khá nhiều kinh sách, các bài khảo luận, nghiên cứu Phật học với nhiều thể loại. Còn nhiều trang mạng Phật giáo khác nữa chuyên sâu về giáo lý và pháp hành của riêng từng tông phái, hệ phái, pháp môn. Sau khi học xong phần căn bản Phật pháp, bạn có thể tự tìm hiểu, nghiên cứu và học hỏi thêm ở các trang này.
    Những kinh sách hay trang mạng mà chúng tôi giới thiệu chỉ là gợi ý ban đầu, có tính tổng quan. Quan trọng nhất, bạn cần kết duyên với một số Vị Tăng ( Ni ) để được trực tiếp trợ duyên, hướng dẫn chi tiết trong quá trình tự học Phật.
    338 / Bị tâm thần nhẹ có nên tiếp tục tu hành ?
    Đúng như bạn nói, theo quy định của Đức Phật, “người tâm lý có phần bất thường thì không được thọ giới”. Trong hoàn cảnh của bạn, nếu được bổn sư đồng ý, gia đình và Phật tử hỗ trợ kinh phí, thì bạn hãy ở chùa, tiếp tục điều trị bệnh cho đến khi lành hẳn mới xin phép thọ giới.
    Bệnh tật thì ai cũng có, nhưng bệnh tâm thần khi phát khởi có thể khiến bệnh nhân mất kiểm soát lời nói và hành vi. Những biểu hiện của căn bệnh này song hành với chiếc áo tu hành thì dễ dàng khiến cho người khác hiểu và đánh giá sai lệch về nhà chùa, chư Tăng nói chung, sẽ khiến bạn tổn phước và đạo pháp bị tổn thương nghiêm trọng.
    Do vậy, nếu không đủ duyên như đã nói thì bạn nên xin phép bổn sư trở về gia đình, làm người cư sĩ, tiếp tục trị bệnh. Khi nào hết bệnh thì bạn trở lại chùa xin được xuất gia.
    ......

  • @user-qv1yo3qe1q
    @user-qv1yo3qe1q Месяц назад

    Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo
    Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
    ( Mỗi người hãy tự mình thấp đuốc lên mà đi, hãy tự làm hòn đảo cho chính mình. Tin chắc rằng : Phật, Pháp, Tăng là thường trụ, Phật luôn ở trạng thái Niết Bàn “ tuyệt đối “; Phật giác ngộ là tự mình, do trí “ vô sư, chứ không hải trí hữu sư “; Phật quan sát và nhìn cuộc đời, sự vận hành của tất cả các Pháp mà giác ngộ vì “ tất cả các Pháp đều là Phật Pháp “, “ Như Lai là nghĩa các Pháp như như “; “ Tất cả chúng sinh dù hữu tình hay vô tình đều có Phật tánh “; “ Tất cả các Pháp đều vận hành theo lý “ Duyên sinh “, “ Nhân qủa “, “ Phước nghiệp “……; Khi chiêm ngưỡng tượng Phật, Chúng ta cố gắng thường hình dung Đức Phật đản sanh ở Ca Tỳ La Vệ, Phật thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng, Phật thuyết pháp ở Ba La Nại và Phật nhập diệt ở Câu Thi Na; đó chính là 04 động tâm, tức 04 điểm kích động tâm chúng ta, tác động căn lành chúng ta khiến chúng ta phát tâm đến với Phật. Nếu chúng ta không phát được tâm Bồ đề, đương nhiên không thể đến với Phật, không thể hiểu Phật và không thấy Phật ).
    Nam Mô Thường Tịch Quang Độ Thanh Tịnh Diệu Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật.
    Nam Mô Thập Đại Thị Giả, Tôn Giả, Thập Tam Đại Tỳ Kheo Ni, Một Ngàn Hai Trăm Năm Mươi Năm Vị Tôn Giả, Trưởng Lão, Đại Đức, Sáu Ngàn Vị Sa Di Ni, Hòa Thượng, Ni Trưởng, Sư, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Sư Cô, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thức Xoa Ma Na, Sa Di, Sa Di Ni, Tứ Chúng, Tinh Xá, Đạo Tràng, Tăng Đoàn Của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Tăng Đoàn Của Các Đức Phật Khác Trong Ba Thời Qúa Khứ, Hiện Tại, Vị Lai.
    Nam Mô Pháp : Nhất tâm đảnh lễ : Chúng con nguyện y giáo phụng hành :
    Nam Mô Tăng.
    Nam Mô Phật. Nam Mô Pháp. Nam Mô Tăng.
    ……
    + Các Vị Cố Trưởng Lão, Thiền Sư, Tổ,......Trong ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai :
    + Ba Mươi Ba Vị Tổ Sư Thiền Tôn Ấn Độ - Trung Hoa và Tam Tổ Thiền Tôn Việt Nam ( Ma Ha Ca Diếp, A Nan, Thương Na Hòa Tu, U Ba Cúc Đa, Đề Đa Ca, Di Dá Ca, Bà Tu Mật, Phật Đà Nan Đề, Phục Đà Mật Đa, Hiếp Tôn Giả, Phú Na Dạ Xa, Mã Minh, Ca Tỳ Ma La, Long Thọ, Ca Na Đề Bà, La Hầu Đa La, Tăng Già Nan Đề, Già Da Xá Đa, Cưu Ma La Đa, Xà Dạ Đa, Bà Tu Bàn Đầu, Ma Noa La, Hạc Lạc Na, Sư Tử, Bà Xá Tư Đa, Bất Như Mật Đa, Bát Nhã Đa La, Bồ Đề Đạt Đa, Huệ Khả, Tăng Xán, Đạo Tín, Hoằng Nhẫn, Huệ Năng, Phật Hoàng Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang ) và Các Vị Thiền Sư Khác Của Ấn Độ - Trung Hoa - Việt Nam - Triều Tiên - Nhật Bản - Phương Tây - Hoa Kỳ : Hư Vân, Tuyên Hóa, Thánh Nghiêm, Phi Ấn Thông Dung Tông Lâm Tế, Thiên Hoàng Đạo Ngô, Mật Vân Viên Ngô, Vô Minh Huệ Kinh, Trạm Nhiên Viên Trừng, Bác Sơn Nguyên Lai, Hối Đài Nguyên Kính, Giác Lãng Đạo Thịnh, Ngọc Lâm Thông Tú, Vĩnh Giác Nguyên Hiền, Vân Thê Chu Hoằng, Hám Sơn Đức Thanh, Tuyết Đình Phúc Dụ, Trung Phong Minh Bản, Pháp Nhãn Vân Ích, Bích Nham Lục, Vô Môn Quan, Trí Nột, Đại Huệ Tông Cảo, Vĩnh Minh Diên Thọ, Hoằng Trí Chính Giác, Đại Huệ Tông Cảo, Nam Nhạc Hoài Nhượng, Thanh Nguyên Hành Tư, Nam Dương Huệ Trung, Vĩnh Gia Huyền Giác, Hà Trạch Thần Hội, Thạch Đầu, Dược Sơn Duy Nguyễn, Thiên Hoàng Đạo Ngộ, Đan Hà Thiên Nhiên, Dương Kì Phương Hội, Hoàng Long Huệ Nam, Ngọc Tuyền Thần Tú, Hạ Trạch Thần Hội, Tung Nhạc Huệ An Quốc Sư, Khuê Phong Tông Mật, Bạch Vân Cảnh Nhàn, Thái Cổ Phổ Ngu, Lãn Ông Huệ Cần, Ẩn Nguyên Long Kì, ……Thiền Sư Triều Tiên, Hàn Quốc, Nhật Bản : Tứ Minh Đường (Samyeongdang), Cảnh Hư ( Gyeongheo ); Mãn Không (Mangong), Âm Quán (Suwol), Huệ Minh (Hyewol), Hán Nham (Hanam), Hiểu Phong Học Nột, Điền Cương Vĩnh Tín, Long Thành (Yongseong), Cửu Sơn (Kusan sunim), Long Thành Thần Chung (Yongseong), Vạn Hải (Manhae), Tính Triệt (Seongcheol) Sùng Sơn Hạnh Nguyên (Seungshah), Đạo Nguyên Hi Huyền, Minh Am Vinh Tây, Tâm Địa Giác Tâm, Nam Phổ Thiệu Minh, Bạch Ấn Huệ Hạc, Mâu Tử, Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Bách Trượng Hoài Hải, Vô Ngôn Thông, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Thông Giác Thủy Nguyệt, Nhất Cú Trí Giáo, Thạch Liêm, Viên Văn Chuyết Chuyết, Minh Hành Tại Tại, Nguyên Thiều Siêu Bạch, Minh Hoằng Tử Dung, Liễu Quán Thiệt Diệu, Thích Thanh Từ, Phong Khuê Tông Mật, Thích Duy Lực, Vĩnh Giác Nguyên Hiền, ….. Ngoài ra còn các vị Thiền Sư ớ các nước Khác ở Hoa Kỳ, Phương Tây thuộc các dòng Thiền như : Tông Lâm Tế Nhật Bản, Tông Tào Động Nhật Bản, Sanbo Kyodan, Thiền Tông Trung Quốc, Thiền Tông Hàn Quốc,…
    + Mật Sư, Kim Cang Thừa : ( Đức Pháp Vương Gyalwang Dukpa, Padmasambhava ( Liên Hoa Sanh ), Atisa, Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Mahamaya, Từ Đạo Hạnh, Trì Bát, Ban Để Đa Ô Sa Thất Lợi, Vạn Hạnh, Thiền Nham, Nguyện Học, Thích Viên Thành, Thích Trí Không,......
    + Mười Ba Vị Tổ Tịnh Độ ( Liên Tông ) Đại Sư : Tổ Khai Đạo Là Ngài Đạo Xước, Huệ Viễn, Thiện Đạo, Thừa Viễn, Pháp Chiếu, Thiếu Khang, Diên Thọ, Tỉnh Thường, Châu Hoằng, Trí Húc, Hành Sách, Thật Hiền, Tế Tỉnh, Ấn Quang ), Cưu Ma La Thập, Nguyên Không ( Hơnen, Pháp Nhiên Thượng Nhân, Cát Thủy Đại Sư, Cát Thủy Thánh Nhân, Hắc Cốc Thượng Nhơn ), Pháp Nhiên ( Viên Quang Đại Sư, Đông Tiệm Đại Sư, Huệ Thành Đại Sư, Hoằng Giác Đại Sư, Từ Giáo Đại Sư ),.....
    + Luận Sư ( Na Tiên (Nāgaseṇa), Phật Âm (Buddhaghosa), Pháp Hộ (Dhammapāla), Hiếp Tôn Giả (Pārasava), Mã Minh (Aśvaghoṣa), Thế Hữu (Vasumitra), Long Thọ (Nāgārjuṇa), Thánh Thiên (Ariyadeva), Phật Hộ (Buddhapāla), Thanh Biện (Bhavaviveka), Vô Trước (Asaṅga), Thế Thân (Vasubandhu), Trần Na (Dinnāga - Dignāga), Hộ Pháp (Dharmapāla), Pháp Xứng (Dharmakirti), Tăng Triệu, Giới Hiền, …… ).
    + Các Ngài Luật Sư : Ưu Ba Ly, Đàm Ma Ca La, Nam Sơn Đại Sư ( Đạo Tuyên ), Đại Trí Thiền Sư ( Nguyên Chiếu ), Truyền Đăng Đại Pháp Sư ( Giám Chân ),.....
    + Hoa Nghiêm Tông : Bồ Tát Mã Minh, Long Thụ, Đế Tâm Tôn Giả ( Đôn Hoàng Bồ Tát, Đỗ Thuận ), Văn Hoa Trí Nghiễm, Hiền Thủ Pháp Tạng, Thanh Lương Trừng Quán ( Thanh Lương Tông ), Khuê Phong Tông Mật, Tử Tuyền, Tứ Đại Gia Đời Tống ( Đạo Đinh, Quan Phục, Sư Hội, Hy Địch ), Phổ Thuy, Viên Giác, Bổn Hao, Bàn Cốc, Văn Tài, Đạt Ích Ba, Đức Thanh, Cổ Đinh, Lý Trác Ngộ, Đạo Thông, Như Phi, Tổ Trụ, Chu Khắc Phục, Tục Pháp, Đạo Tuyền, Thẩm Tường, Lương Biện, Thật Trung, Đẳng Định, Chánh Tấn, Quang Trí,……)
    + Tam Luận Tông : Bồ Tát Long Thụ, Ka Na Bà Đề, Cưu Ma La Thập, La Hầu La Đa Là Tân Già La ( Piṅgalanetra, Thanh Mục ); Tu Lợi Da Bạt Đà, Tu Lợi Da Tô Ma, Cát Tạng, Pháp Lãng, Gia Tường Đại Sư, Huệ Quán, Khuyến Lặc,……
    + Thiên Thai Tông ( Pháp Hoa Tông ) : Trí Khải Đại Sư, Trí Giả Đại Sư, Truyền Giáo Đại Sư ( Tối Trừng, Dengyo Daishi, Saichơ ),……
    + Chân Ngôn Tông : Đại Sư Thiện Vô Úy, Kim Cang Trí ( Vajrabodhi ), Bất Không ( Amoghavajra ), Hoằng Pháp Đại Sư ( Kobo Daishi, Không Hải ), Hàm Quang, Huệ Lãng, Huệ Qủa, Nghĩa Minh, Nghĩa Viên, Huệ Nhật, Huệ Ứng, Nghĩa Thảo,……
    + Câu Xá Tông : Bồ Tát Thế Thân, Huyền Trang, Tchitsu, Tchitasu,……
    + Thành Thật Tông : Ha Lê Bạt Ma, Cưu Ma La Thập ( Kumrajyva, Đồng Thọ ), Huệ Quán, Khuyến Lặc,……
    + Pháp Tướng Tông : Bồ Tát Thế Thân, Huyền Trang, Đạo Chiêu ( Dơshơ ), Huyền Phảng ( Genbơ ), Huệ Chiểu,......
    + Sư, Tổ, Qúy Hòa Thượng, Thiền Sư, Thượng Tọa, Đại Đức, Tôn Đức, Tăng Ni, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Sa Di, Sa Di Ni ( Khánh Hòa, Khánh Anh, Bách Trượng, Tăng Trượng, Nguyễn Minh Không, Từ Đạo Hạnh, Giác Hải, Vạn Hạnh, Minh Đăng Quang, ......) Trong Ba Thời Qúa Khứ, Hiện Tại Và Vị Lai.
    + Các Ngài Tam Tạng Pháp Sư, Cưu Ma La Thập, Huyền Trang, Pháp Sư Pháp Đăng, Đại Sư Thật Xoa Nan Đà, Bồ Đề Lưu Chi, Nam Sơn Đại Sư ( Đạo Tuyên ), ......Trong Ba Thời Qúa Khứ, Hiện Tại và Vị Lai.

  • @user-qv1yo3qe1q
    @user-qv1yo3qe1q 27 дней назад

    Phật Pháp và Cuộc Sống : Tất cả các Pháp đều là Phật Pháp : Chúng sanh đa bệnh - Phật Pháp đa phương : ( đoạn 176 ) :
    532 / Ý nghĩa & cách thức sử dụng chuông mõ tại tư gia
    Chuông gia trì và mõ là hai pháp khí quan trọng để hàng Phật tử tụng kinh, niệm Phật tại tư gia. Chuông gia trì được đúc bằng chất liệu đồng, kích thước vừa và nhỏ, thường đặt phía bên tay phải người chủ lễ, khi thỉnh chuông tiếng ngân vang thanh thoát mà trầm hùng.
    Chuông gia trì chủ yếu sử dụng trong khi làm lễ, tụng niệm. Tiếng chuông gia trì là những hiệu lệnh cần thiết để buổi lễ diễn ra nhịp nhàng đúng với trình tự của khoa nghi, giúp mọi người tham dự lễ hòa hợp, thanh tịnh và hướng đến nhất tâm.
    Người thỉnh chuông gia trì gọi là duy na. Trong buổi lễ, duy na là người điều hành buổi lễ theo đúng với ý hướng của vị chủ lễ. Vì vậy, người thỉnh chuông gia trì phải am tường khoa nghi và chú tâm cao độ mới có thể làm tốt phận sự của mình.
    Ngoài chuông gia trì, mõ cũng là một pháp khí rất quan trọng. Mõ được làm bằng gỗ, hình bầu dục, được đặt phía bên tay trái người chủ lễ, khi gõ mõ phát ra tiếng trầm hùng mà thanh thoát.
    Trong khi tụng niệm, tiếng mõ có tác dụng duy trì sự nhịp nhàng đều đặn, không lộn xộn đồng thời tạo ra cảm giác hân hoan, phấn chấn, và nhờ đó, người tụng niệm khỏi bị rối trí loạn tâm, chuyên nhất vào tiếng kệ lời kinh. Ngoài ra, tiếng mõ nhằm cảnh tỉnh tâm trí những người tham gia tụng niệm khỏi bị buồn ngủ, dã dượi, và cũng chính vì ý này mà quai mõ, thân mõ thường chạm trổ hình cá, loài không bao giờ nhắm mắt ngủ để biểu thị cho sự luôn luôn tỉnh thức.
    Người gõ mõ trong buổi lễ gọi là duyệt chúng, nghĩa là làm cho đại chúng đẹp lòng, tụng niệm một cách hòa hợp, hân hoan. Vì thế, gõ mõ làm cho vui lòng đại chúng trong khi tụng niệm nhằm giúp họ hướng đến nhất tâm là cả một nghệ thuật, phải học tập và rèn luyện thật nhiều mới có thể làm tròn phận sự.
    Về cách thức sử dụng chuông mõ tại tư gia, trước khi làm lễ cần đốt hương đèn, kế đó chủ lễ mặc áo tràng trang nghiêm bước vào vị trí trước bàn kinh chuẩn bị quỳ niêm hương, thỉnh ba tiếng chuông ( trước khi thỉnh chuông cần thức chuông, giập nhẹ dùi vào vành chuông ). Trong trường hợp không có người giúp chuông mõ hay tụng niệm một mình thì vị chủ lễ phải kiêm hết cả chuông lẫn mõ.
    Kế đến vị chủ lễ xướng bài Quán tưởng, cuối bài xá Phật một xá, thỉnh một tiếng chuông. Rồi đến đảnh lễ Tam bảo, trước mỗi lạy thỉnh một tiếng chuông ( khi vị chủ lễ lạy trán chạm đất thì giập chuông - dùng dùi chuông gõ vào vành chuông nhưng giữ lại, không cho âm thanh ngân lên ).
    Sau khi lễ Phật xong, mọi người ngồi xuống hướng về Tam bảo, chuẩn bị khai chuông mõ để tụng niệm. Ở đây, để tiện diễn đạt, tạm quy ước tiếng chuông là (c) và tiếng mõ là (m). Trước, thỉnh ba tiếng chuông rời nhau - (c), (c), (c). Sau ba tiếng chuông, gõ bảy tiếng mõ theo cách : bốn tiếng đầu rời, hai tiếng sau dính liền, một tiếng sau cùng rời - (m), (m), (m), (m), (m)(m), (m). Tiếp theo là thỉnh chuông và mõ đan xen nhau theo cách : chuông trước mõ sau, ba lần như vậy thì ngừng chuông, kế mõ gõ tiếng thứ tư, tiếng mõ thứ năm và sáu dính liền nhau, tiếng mõ thứ bảy rời - (c), (m), (c), (m), (c), (m), (m), (m)(m), (m) - chấm dứt bằng tiếng giập chuông.
    Khai chuông mõ xong thì bắt đầu tụng niệm, lệ thường mỗi chữ một tiếng mõ. Cần chú ý là khi tiếng kinh ( kệ ) đầu tiên cất lên, chưa gõ mõ, tiếng thứ hai mới đệm một tiếng mõ, tiếng thứ ba không gõ mõ, tiếng thứ tư, thứ năm về sau nhịp mõ đều đặn. Nếu tụng thần chú thì nhanh, tụng kinh sám thì chậm hoặc vừa; tụng kinh bộ thì nên gõ mõ theo lối “ nhanh dần đều ”. Đến khi chấm dứt bài kinh ( kệ ), muốn dừng lại, thì những tiếng mõ gần cuối gõ chậm lại, hai tiếng mõ áp chót dính liền và tiếng mõ cuối cùng gõ rời ra - (m), (m)(m), (m).
    Thỉnh chuông cũng vậy, thường thì cuối bài kệ hay cuối đoạn kinh điểm một tiếng chuông. Lúc niệm Phật, muốn chuyển qua danh hiệu khác, thỉnh một tiếng chuông. Khi muốn chấm dứt thì tiếng thứ năm ( hoặc thứ ba ) gần cuối bài kinh ( kệ ) thỉnh một tiếng chuông, tiếng cuối cùng thỉnh thêm một tiếng chuông nữa.
    Về cách thức tụng niệm, bạn hãy thỉnh một cuốn kinh Nhật tụng bằng tiếng Việt ( tránh dùng kinh Nhật tụng phiên âm Hán - Việt, vì phần nhiều không hiểu nghĩa ). Trong kinh, mỗi phần đều có hướng dẫn tụng niệm rất rõ ràng. Phối hợp với cách sử dụng chuông mõ như đã nêu, bạn có thể tụng kinh, niệm Phật, lễ Phật hàng ngày rất dễ dàng.
    ......

  • @user-qv1yo3qe1q
    @user-qv1yo3qe1q 26 дней назад

    Phật Pháp và Cuộc Sống : Tất cả các Pháp đều là Phật Pháp : Chúng sanh đa bệnh - Phật Pháp đa phương : ( đoạn 207 ) :
    640 / Thêu tranh hình Phật
    Ngày xưa, trước khi khởi sự là những việc có tính thiêng liêng, trọng đại người ta thường phát nguyện “ ăn chay, nằm đất ” ( bao hàm không quan hệ ân ái nam nữ ) chí ít từ ba ngày trở lên. Dĩ nhiên việc ăn chay, nằm đất này được thực hành theo đúng nghĩa đen của nó. Nhưng qua đó, sự phát nguyện này mang một ý nghĩa sâu xa là tịnh hóa thân tâm, thể hiện sự trong sạch, trang nghiêm, thành kính của thân thể và tâm hồn trước những việc có tính hệ trọng để mong ơn trên gia hộ cho công việc được thành tựu như ý. Riêng đối với những công việc có tính thiêng liêng như vẽ, thêu, khắc, tạc tượng Phật và Bồ Tát thì sự phát nguyện thực hành “ ăn chay, nằm đất ” lại càng tinh chuyên hơn.
    Ngày nay, thỉnh thoảng vẫn còn một số người tuân thủ theo những nguyên tắc này. Nghiêm giữ những điều kiêng kỵ hay tự thúc liễm mình theo kỷ luật riêng trước và trong khi làm những việc thiêng liêng, trọng đại. Ai làm được như lệ xưa thì rất tốt, rất đáng được ca ngợi. Còn ai chưa làm được, theo thiển nghĩ, biết lưu tâm tới vấn đề tịnh hóa thân tâm đã là quý hóa lắm rồi, vì các điều kiện nêu trên không phải ai cũng làm được.
    Riêng bạn, thêu tranh Phật như một hình thức công phu là rất tốt. Thêu tranh Phật cũng chính là tu, ý tập trung vào hình tượng Phật, tay nắn nót từng mũi chỉ đường kim theo hình tượng Phật, nếu thêm miệng thầm niệm Phật nữa thì chính là ba nghiệp thanh tịnh. Nhờ nương vào việc thêu tranh tượng Phật mà bạn tịnh hóa được ba nghiệp nên tuy không “ ăn chay, nằm đất ” theo nghĩa đen trong thực tế mà vẫn trọn vẹn ý nghĩa dọn mình trong sạch, chẳng những không mắc tội mà còn được công đức vô lượng.
    641 / Cần trực tiếp tham dự Lễ quy y
    Cả hai bạn đều nên đến chùa đăng ký quy y, và nhất là phải trực tiếp tham dự lễ để tự thân mình đối trước Phật - Pháp - Tăng phát lời thệ nguyện trọn đời quy hướng Tam bảo, chính thức trở thành Phật tử. Sau khi quy y xong, cũng đối trước Tam bảo phát lời thệ nguyện giữ gìn 05 giới ( hoặc ít hơn ) thì vấn đề quy giới mới thành tựu như pháp.
    Mặc dù hiện nay, tâm và hạnh của các bạn đã là tâm hạnh một Phật tử thuần thành. Nhưng sẽ tốt hơn cho các bạn rất nhiều nếu đủ duyên lành trực tiếp tham dự Lễ quy y. Vì lúc đối trước Tam bảo phát nguyện quy y là giờ phút thiêng liêng. Chính nhờ sự giao cảm đó người quy y mới nhận được năng lượng hộ trì rất hùng hậu từ Tam bảo mà người không quy y chẳng bao giờ cảm nhận được; và điều này sẽ trợ duyên cho Phật tử tu học tinh tấn trên đường đạo rất nhiều.
    Riêng bạn Quang Doanh muốn giữ pháp danh của mình, tốt nhất là về quê, lên chùa ( đã cấp phái quy y cho bạn ) xin quy y Tam bảo. Trong trường hợp bạn không về chùa quê để quy y mà quy y tại một ngôi chùa khác thì tốt nhất nên dùng pháp danh sau này.
    Nhân đây chúng tôi thiết nghĩ, Chư Vị Tăng Ni khi hướng dẫn quy y cho Phật tử, tuy có phương tiện “ tùy duyên ” nhưng phải tuân thủ sự “ bất biến ” để Phật sự quy y luôn đúng như luật, như pháp.
    642 / Khi chồng đòi ly hôn
    Do hoàn cảnh cuộc sống bận rộn và xa xôi cách trở nên sự tìm hiểu về người bạn đời tương lai của cả hai vợ chồng bạn trước khi thành hôn có thể nói là chưa được sâu sát. Nên sau khi về sống chung với nhau, tính cách thực của mỗi người dần được hé lộ ra. Sự bất đồng quan điểm dẫn đến cãi cọ trong thời gian đầu sống chung cũng không phải là chuyện hiếm giữa các cặp vợ chồng son.
    Tuy vậy, nếu vợ chồng sống chung gần gũi thì dần dà có thể tìm hiểu sâu hơn về tính cách của nhau để khắc phục tình trạng bất đồng này. Nhưng đối với hoàn cảnh của bạn hiện nay, anh ấy đang lao động ở nước ngoài, lại đòi ly hôn, còn hăm he “ sẽ không về nước nữa, cho vợ đợi đến khi nào chán sẽ thôi ”, nếu không nỗ lực thì cũng khó có cơ hội khắc phục.
    Theo chúng tôi, hiện bạn đã học xong, có bằng cấp đàng hoàng nên việc đầu tiên là bạn cần nhanh chóng tìm việc làm. Đi làm, đối với bạn hiện nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Có công ăn việc làm sẽ khiến bạn tự chủ, xua tan mặc cảm tự ti “ ăn bám chồng ” cùng cảm giác nhàm chán suốt ngày chỉ quanh quẩn trong nhà. Bạn cứ mạnh dạn đi làm vì không ai có thể buộc bạn ở nhà cả, dù đó là chồng của bạn. Chính môi trường làm việc, giao tiếp, sự tự chủ về kinh tế cùng với nhiều ứng xử xã hội khác sẽ giúp bạn giải tỏa nhiều vướng mắc trong hiện tại và ngày một trưởng thành, vững chãi hơn.
    Song hành với việc đi làm, thông qua các phương tiện liên lạc hiện đại hiện nay, bạn cố gắng kết nối với chồng để sẻ chia, tâm sự, bày tỏ tất cả tâm tư, tình cảm, ước vọng của mình với một tấm lòng chân thành, yêu thương, kính trọng nhất. Nhất là những bất đồng dẫn đến cãi cọ bạn cần tháo gỡ với tâm hòa giải, xây dựng. Bạn biết nhường nhịn trong mỗi lần vợ chồng xảy ra cãi vã là điều tốt, nhưng sau đó hết căng thẳng phải mạnh mẽ góp ý xây dựng lẫn nhau, quyết không để nhường nhịn thành nhu nhược.
    Bạn cứ hết lòng mong muốn hàn gắn những rạn nứt để đoàn tụ gia đình nhưng nếu chồng bạn kiên quyết đòi ly hôn hoặc ly thân ( không về nước nữa ) thì bạn cũng nên cân nhắc để chọn cho mình một hướng đi mới.
    Trong tình cảm vợ chồng, sau mọi nỗ lực cứu vãn mà không hàn gắn được nữa thì cũng nên chủ động “ giải thoát ” cho mình và người bạn đời.
    Là Phật tử, chúng ta không nên quá chấp thủ bất cứ điều gì mà phải cố gắng tháo gỡ để sao cho nhẹ nhàng, thanh thản trong mọi phương diện nhằm sống khỏe, sống vui trong cuộc đời tạm bợ này. Nếu ly hôn, bạn vẫn tiếp tục công việc của mình, ngoài giờ làm việc bạn lên chùa để tu tâm dưỡng tánh thêm thì rất tốt. Nhưng nếu ly hôn rồi bạn có ý vào chùa ở ( xin xuất gia ) thì không nên, vì không nhất thiết phải như vậy.
    643 / Nghiệp “ Câu cá ”
    Trong dân gian hay nói “ nghề chơi cũng lắm công phu ”. Câu cá cũng được xem là một trò chơi, thú tiêu khiển khá công phu của một số người nhàn rỗi, khá giả. Nhưng trong vô số trò tiêu khiển, thú vui của tuổi già thì câu cá ( hay săn bắn ) không phải là trò hiền lành mà gắn liền với nghiệp sát hại chúng sanh. Người Phật tử có thể xem đây là một trò chơi ác, một thú vui bất thiện, có hại cho đời này và cả đời sau, không nên tham dự vào.
    Bạn là Phật tử và đã có quan điểm rất đúng đắn “ luôn tâm niệm sống thế nào cho tốt, góp phần bảo vệ thiên nhiên, nuôi dưỡng từ tâm theo Phật dạy ”. Ngoài ra còn rất nhiều hoạt động khác, có lợi ích cho thân tâm, cho đời này và cả đời sau hơn câu cá rất nhiều như tập dưỡng sinh, tập thiền, đi bộ, trồng cây… và các hoạt động xã hội bổ ích khác.
    Mỗi người đều có nghiệp riêng, chọn thú tiêu khiển câu cá cũng do nghiệp của họ. Nếu có dịp, bạn cũng nên chia sẻ tâm sự để những người bạn thích đi câu nhận thức được hành vi câu cá để tiêu khiển là không tốt, vì tạo nghiệp giết chóc, tàn hại môi trường nhằm giúp họ chuyển nghiệp xấu câu cá sang một hoạt động giải trí khác bổ ích hơn.
    ......

  • @user-qv1yo3qe1q
    @user-qv1yo3qe1q Месяц назад

    Phật Pháp và Cuộc Sống : ( đoạn 3 ) :
    6 / Sám hối tội hủy báng ?
    Trong thực tế, có không ít người từng trải qua những cảm xúc và kinh nghiệm như bạn. Bởi trước đây chưa hiểu đạo, tự tin và có phần ngã mạn thái quá nên thường nghĩ hoặc buông lời xúc phạm đến Trời Phật. Riêng bạn, nhờ căn lành vẫn còn nên đã biết quy hướng Tam bảo, biết tu tập theo Chánh pháp, và nhất là biết sợ tội lỗi hủy báng của mình.
    Theo tinh thần từ bi và trí tuệ của nhà Phật, người không hiểu biết nên phạm lỗi cũng chưa đáng tội. Mê từ tâm này mà ra thì khi giác ngộ rồi cũng chính từ tâm ấy mà sửa. Quan trọng là nhận ra tội lỗi của mình để tìm cách khắc phục. Hẳn bạn đã từng biết câu “ Tội từ tâm khởi đem tâm sám ” nên biết lỗi thì chuộc lỗi bằng cách thành tâm sám hối.
    Tất cả các vấn đề tốt xấu, thuận nghịch của cuộc sống đều bắt nguồn từ nơi ba nghiệp ý, miệng, thân ( suy nghĩ, lời nói, hành động ) của mình. Nếu suy nghĩ, lời nói và hành động xấu ác thì nhận lấy hậu quả khổ đau. Ngược lại nếu suy nghĩ, lời nói và hành động thiện lành thì gặt hái kết quả an vui.
    Nên trước hết, bạn cần khởi tâm ăn năn, hối cải về những mê lầm, tội lỗi hủy báng của mình. Kế đến bạn cần nương theo một trong những bộ kinh sám như Thủy sám, Lương hoàng sám, Ngũ bách danh Phật, Vạn Phật, Hồng danh bửu sám v.v… để xưng niệm và lễ bái sám hối tất cả nghiệp chướng. Bạn cần lễ bái cho đến khi nào nhận thấy tâm tư thanh thản, nhẹ nhàng mới thôi.
    Lễ bái hồng danh Phật có công đức không thể nghĩ bàn. Vì thế, bạn hãy thành tâm kính lễ để hóa giải nghiệp chướng, đồng thời khiến cho phước đức tăng trưởng, thành tựu hạnh phúc và an lành trong cuộc sống.
    7 / Tin Phật A Di Đà có phải tà kiến ?
    Theo Phật giáo Bắc tông, Đức Phật A Di Đà và cảnh giới Cực lạc do Đức Phật Thích Ca thuyết giảng. Hiện cả hai truyền thống Phật giáo Bắc tông và Nam tông đều tin vào giáo lý chư Phật và tịnh độ của các Ngài hiện hữu trong mười phương, ba đời. Vì thế, việc tin có một cảnh giới tịnh độ ở Tây phương, cách xa chúng ta hơn mười muôn ức cõi, phù hợp với quan điểm Phật giáo, không có gì là tà kiến cả.
    Còn ngày vía Phật A Di Đà 17 tháng 11 âm lịch hiện nay, thực chất là ngày sinh của Đại Sư Vĩnh Minh - Diên Thọ, Tổ Sư đời thứ sáu của 13 vị Tổ Tông Tịnh Độ Phật giáo Trung Quốc.
    Đại sư Vĩnh Minh - Diên Thọ được truyền tụng là hóa thân của Phật A Di Đà nhưng trong 72 năm thị hiện làm Tăng ở Ta Bà không ai biết được. Chỉ đến những giờ phút sau cùng, lúc thị hiện nhập Niết Bàn, mới phương tiện cho hàng Tăng kẻ tục biết ngài là Phật A Di Đà hóa thân để tăng trưởng lòng tin, phát tâm niệm Phật, cầu vãng sanh Tây phương Tịnh độ. Từ đây, ngày sinh của Đại sư Vĩnh Minh - Diên Thọ ( hóa thân Phật A Di Đà ) được chọn làm ngày vía Khánh đản Phật A Di Đà.
    8 / Băn khoăn về giữ giới thứ ba
    Giới thứ ba Không tà dâm có nghĩa chính yếu là chung thủy với người bạn đời của mình. Người Phật tử không quan hệ tình ái với người khác ngoài vợ hoặc chồng của mình ( kể cả các loài phi nhân và súc sanh ); ngay trong quan hệ vợ chồng cũng phải dựa trên tinh thần tự nguyện, dâng hiến, có chừng mực, hợp thời, phải chỗ. Đại thể, những sự quan hệ nam nữ không được giới luật, luật pháp và luật tục thừa nhận đều được xem là tà dâm.
    Đối với những ngày “ trai “ trong tháng, bao gồm thập trai ( mùng 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30 âm lịch ), lục trai ( mùng 8, 14, 15, 23, 29, 30 âm lịch ), tứ trai ( mùng 1, 14, 15, 30 âm lịch ), nhị trai ( mùng 1, 15 âm lịch ), thiển nghĩ, chỉ có hai ngày nhị trai ( sóc, vọng ) Phật tử cần phát tâm trai giới, thanh tịnh thân tâm nên tránh không quan hệ vợ chồng. Ngoài ra, vào những ngày lễ lớn, ngày giỗ cha mẹ, Phật tử cần phát tâm trai giới để vun bồi phước đức.
    Cần nói thêm, chữ “ trai “ đây là trai giới, thanh tịnh thân tâm nhờ giữ giới Bát quan trai, do Phật tử tự giác phát nguyện thọ trì. Tu tập trai giới chủ yếu là do sự phát tâm, được nhiều ngày thì phước đức càng thêm lớn. Còn những ngày “ trai “ khác và các tháng “ trai “ khác, nếu Phật tử không phát nguyện thọ trì trai giới thì mọi sinh hoạt đời sống đều bình thường.
    9 / Sửa tâm có đổi được tướng ?
    Đúng là “ tướng tự tâm sinh ”, tướng mạo của con người đều do tâm của chính vị ấy sinh ra. Chữ “ tâm ” đây có hai ý nghĩa quan trọng bạn cần lưu ý để làm cơ sở cho việc “ sửa tâm ” của mình.
    Như bạn đã chia sẻ, khi mới sinh ra bạn đã có gương mặt không đẹp và chẳng hiền. Do tâm thức tái sinh mang theo những nghiệp nhân bất thiện trong quá khứ để chiêu cảm ra quả báo hiện tại không được đẹp đẽ, nên nói hình tướng do tâm ( nghiệp ) sinh ra. Tướng mạo, trong trường hợp này có tính cố định, sự tu tập và tăng trưởng phước báo nếu có chỉ chuyển hóa hoặc can thiệp được một vài phần, không thể chuyển trắng thành đen và ngược lại. Ví dụ, người lùn thì chỉ can thiệp được bớt lùn; một người xấu thì dùng mọi nỗ lực chuyển hóa sẽ được bớt xấu; một người da đen thì được bớt đen mà thôi.
    Về phương diện khác, ngay trong thời điểm hiện tại, tâm ( tâm lý ) vui hay buồn, thương hoặc giận sẽ biểu hiện ra khá rõ ràng trong lời nói, hành động, nhất là trên gương mặt mình. Nếu trong lòng vui vẻ hân hoan thì ngoài mặt rạng ngời, hạnh phúc. Ngược lại trong lòng đang tức giận thì đỏ mặt tía tai, nói năng hung dữ, hành vi lỗ mãng. Do vậy mà nói “ tướng tự tâm sinh ”. Trong trường hợp này, khi bạn cố gắng sửa tâm, gột rửa tham sân si, giữ cho tâm tĩnh sáng và hiền thiện thì căn bản gương mặt bạn vẫn không thay đổi. Chỉ khác là tuy mặt xấu mà tâm tốt, dù mặt dữ mà tâm hiền thành ra bạn vẫn “ đẹp ” và luôn được mọi người yêu thương, thân thiện.
    ......

  • @user-qv1yo3qe1q
    @user-qv1yo3qe1q 27 дней назад

    Phật Pháp và Cuộc Sống : Tất cả các Pháp đều là Phật Pháp : Chúng sanh đa bệnh - Phật Pháp đa phương : ( đoạn 172 ) :
    520 / Thờ tượng Phật ngoài trời tại tư gia có phạm pháp ?
    Trước hết chúng tôi hoan nghênh tinh thần “ là Phật tử chân chánh, luôn tôn trọng pháp luật ” của bạn. Là một công dân tốt, một Phật tử mẫu mực thì điều đầu tiên phải tuyệt đối tuân thủ pháp luật.
    Nói về pháp luật thì đương nhiên là đúng đắn, quy định cụ thể, chi tiết và ngày tháng rõ ràng. Pháp luật luôn được công khai, mọi người đều biết rõ để cùng nhau chấp hành. Trường hợp cán bộ xã buộc người dân thực thi pháp luật mà chỉ nói chung chung, ra lệnh bằng miệng, cố tình giấu giếm hoặc không dựa vào văn bản pháp luật hiện hành nào cả là điều không thể chấp nhận.
    Bạn là người dân nên vốn không mấy am tường về các văn bản pháp luật, nhất là các nghị định, nghị quyết… mới, nên có quyền yêu cầu cán bộ hướng dẫn cụ thể để hiểu và chấp hành. Nếu cán bộ không đưa ra văn bản pháp luật nào mà bắt buộc hay cưỡng chế người dân di dời một công trình nào đó thì chính các cán bộ ấy vi phạm pháp luật.
    Có hai vấn đề cần đặt ra trong trường hợp của bạn, nếu thực sự có văn bản pháp luật mới quy định cấm “ thờ tượng Phật ngoài trời ” tại tư gia thì phải xem thời gian ra đời của văn bản đó. Bạn đặt tượng từ 07 năm trước, nay mới có quy định thì chắc chắn bạn không vi phạm pháp luật. Trong trường hợp này, cán bộ nên ân cần vận động, nhẹ nhàng giải thích, hỗ trợ nhiều cách cho người dân hiểu vấn đề để họ tự nguyện thực thi pháp luật vì lợi ích chung. Ngược lại, nếu bạn dựng tượng sau ngày ban hành văn bản pháp luật thì bạn đã phạm pháp. Trường hợp này cán bộ mới có quyền xử lý người vi phạm theo pháp luật hiện hành.
    Về phương diện văn bản pháp luật, chúng tôi đã tìm hiểu Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo ( số 21 / 2004 / PL - UBTVQH11, ngày 18 - 6 - 2004 ), Nghị định số 92 / 2012 / NĐ - CP ( do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký ngày 8 - 11 - 2012 về tín ngưỡng, tôn giáo ), Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam ( tu chỉnh lần 5 ), Nội quy Ban Hướng dẫn Phật tử Trung ương ( tu chỉnh lần 4 )… và cũng chưa tìm thấy quy định cấm “ thờ tượng Phật ngoài trời ” tại tư gia Phật tử.
    Điều đáng nói là hiện nay, một số địa phương trên cả nước vẫn tồn tại việc chính quyền yêu cầu người dân Phật tử tháo dỡ, di dời tượng thờ lộ thiên tại tư gia ( ra lệnh bằng miệng ) mà hầu như không đưa ra một văn bản pháp luật nào cả. Điều này khiến cho không ít Phật tử bức xúc phản đối cũng như tạo ra sự lúng túng trong khi xử lý vấn đề của chính quyền địa phương. Thiết nghĩ, Giáo hội Phật giáo Việt Nam cần phối hợp với các ban ngành chức năng của Nhà nước sớm ban hành quy chế cụ thể về tượng thờ lộ thiên ( như địa điểm và cách thức tôn trí, kích thước tôn tượng… ) để người Phật tử được tự do thể hiện tín ngưỡng cũng như sự quản lý của Nhà nước được thuận tiện và rõ ràng.
    Cần nói thêm rằng, trong đời sống thực tiễn xã hội, việc Phật tử thờ tượng Bồ tát lộ thiên ở trên sân thượng, non bộ và trong sân vườn tại tư gia Phật tử là truyền thống lâu đời và rất phổ biến. Trong tín ngưỡng thờ phụng của Phật giáo, hầu hết các vị Phật và Bồ tát, Thánh tăng thường thờ trong chánh điện, đặc biệt riêng Bồ tát Quán Thế Âm thường được thờ ngoài trời, ngoài biển, ngoài vườn ( quen gọi là Quán Âm lộ thiên ).
    Trở lại vấn đề, bạn đang sống trong một xã hội với hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh và nghiêm minh. Vì thế, nếu chính quyền xã nơi bạn cư trú không đưa ra văn bản nào của Nhà nước quy định cấm “ thờ tượng Phật ngoài trời ” tại tư gia Phật tử thì bạn không có nghĩa vụ chấp hành, và bạn hoàn toàn không vi phạm pháp luật.
    521 / Cần làm phước để hồi hướng
    Trong vòng 49 ngày là khoảng thời gian tốt nhất cho thân nhân làm phước rồi hồi hướng công đức cho người thân đã mất. Cách thức làm phước thì rất đa dạng, nhưng thông dụng và phổ biến hơn cả là phát tâm tụng kinh, cúng dường, bố thí, ăn chay, ấn tống kinh sách, phóng sanh,…nói chung là hướng Phật, làm lành.
    Cần lưu ý là, việc làm phước của thân nhân chỉ có tác dụng trợ duyên nhằm “ ảnh hưởng tốt nhất đến tiến trình tái sanh ” mà thôi chứ không mang tính quyết định. Chính nghiệp lực của mỗi người tốt hay xấu kết hợp với khả năng thức tỉnh nhiều hay ít mới là nhân tố quan trọng quyết định xu hướng tái sanh vào cảnh giới lành hay dữ trong lục đạo.
    Sau khi hỏa táng, tro cốt người mất nên thờ ở chùa hay nghĩa trang; ở nhà chỉ nên thờ di ảnh mà thôi.
    522 / Thân trung ấm tồn tại có trái ngược với giáo lý Vô ngã ?
    Đúng là trong Kinh Bát Nhã, Đức Phật dạy “ năm uẩn đều không ”. Khó hiểu nhất trong lời dạy này là chữ Không. Không đây không phải mang nghĩa đối lập với có, là không có gì cả mà siêu việt nghĩa có - không thường tình. Không chính là không có tự tính, duyên khởi tính, vô ngã tính, là Sunyata. Như vậy, Phật dạy thân năm uẩn này là không có tự ngã, do duyên sanh chứ không nói thân này là “ không có cái gì cả ”.
    Ngoài giáo lý duyên sanh, vô ngã, Đức Phật còn dạy về luân hồi và tái sanh. Con người sau khi chết không mất hẳn mà tái sanh vào trong lục đạo tương ứng với nghiệp của mình. Vậy cái gì đi tái sanh ? Cái đó, tạm gọi là “ thần thức - hương linh - thân trung ấm - trung hữu ”. Điều đáng nói là cái thần thức… này không phải là linh hồn trường cửu, bất biến ( như quan niệm của các tôn giáo khác ) mà nó cũng duyên sanh, vô ngã như thân năm uẩn vậy. Có thể nói, khi còn sanh tiền năm uẩn đều Không, khi mất rồi thần thức… cũng đều Không. Và như thế, không có gì chấp ngã hay không đúng với “ lời kinh, ý Phật ” hoặc “ ngược lại với giáo lý vô thường, vô ngã, tánh không ” cả.
    Theo chỗ bạn biết : “ thời Đức Phật còn trụ thế, Ngài chưa từng nói về lễ cầu siêu, cũng chưa từng có thuyết linh ”, thiết nghĩ, bạn có biết nhưng chưa trọn. Trước hết, đối tượng để cầu siêu không phải chỉ có thần thức, thân trung ấm mà các chúng sanh trong ác đạo ( đặc biệt là loài ngạ quỷ sống quanh ta ). Thời Phật tại thế, chính Đức Phật cũng như các Tỳ kheo nói pháp khai thị ( thuyết linh ) cho các ngạ quỷ, dạ xoa, la sát giác ngộ, bỏ tà quy chánh rất nhiều. Mặt khác, mỗi khi có người qua đời, tứ chúng thường hỏi Thế Tôn vị ấy sanh về nơi nào, Thế Tôn thường nói cho tứ chúng biết rõ người ấy đã siêu thoát hay bị đọa lạc. Và như thế, lễ cầu siêu hiện nay là hoàn toàn cần thiết trong tâm nguyện cầu âm siêu, dương thái của mọi người.
    Vấn đề “ Đức Thế Tôn có phải đang dần bị các thứ nghi lễ kia thần thánh hóa, biến thành vị thần xin thì cho, cầu thì ban hay không ” hoàn toàn tùy thuộc vào tuệ giác, chánh kiến của những người thực hành các nghi lễ cầu an, cầu siêu. Nếu những thí chủ tổ chức lễ chỉ nhằm “ xin, cầu ” Phật cho họ an, siêu và những vị Tăng ( Ni ) cũng nhắm mắt “ xin, cầu ” giúp cho thí chủ mà không khai hóa, hướng dẫn họ hiểu và tu học đúng như Chánh pháp thì việc này không phải là Phật sự đúng nghĩa. Bởi Phật không có quyền ban phúc hay giáng họa cho ai nên “ xin, cầu ” thì Ngài cũng không giúp được ( huống là những Tăng, Ni bình thường ). Chỉ có nhân quả mới thực sự có quyền năng, nên hãy gieo nhân lành để gặt phước quả tốt đẹp. Phật dạy nên “ xin, cầu ” điều tốt để hưởng quả lành. Cầu siêu cũng vậy, Phật cũng không giúp cho họ siêu sanh, và chúng ta không một ai có thể làm cho họ siêu sanh, trừ việc chính họ tỉnh thức mà thăng hoa, siêu thoát.
    Đức Phật là bậc Giác ngộ, giáo pháp của Ngài luôn đồng nhất một vị giải thoát. Vì thế, cần nghiên tầm và thực hành theo đúng Chánh pháp để được lợi ích, an lạc.
    ......

  • @user-qv1yo3qe1q
    @user-qv1yo3qe1q 26 дней назад

    Phật Pháp và Cuộc Sống : Tất cả các Pháp đều là Phật Pháp : Chúng sanh đa bệnh - Phật Pháp đa phương : ( đoạn 208 ) :
    644 / Không phạm tội “ Hủy hoại kinh sách ”
    Biên chép kinh sách, Phật hiệu hay thần chú ra giấy để lưu trữ, học tập là một trong những việc làm phổ biến của Tăng Ni, Phật tử. Dĩ nhiên trong quá trình biên chép không thể tránh khỏi sai sót hoặc cần phải xử lý bản thảo thì những trang viết hoặc quyển kinh sách đó cần được mang đi tịnh hóa.
    Tịnh hóa là cách thức xử lý các kinh sách ( văn hóa phẩm Phật giáo nói chung ) đã hư cũ bằng cách chọn một nơi sạch sẽ đốt cháy hoàn toàn. Sau khi lửa tắt hết, dùng nước sạch dội lên tro tàn khiến không còn bất cứ dấu vết nào nữa. Trong chùa hay tại tư gia các Phật tử, sau khi học tập, sử dụng xong những trang hay quyển tập vở dùng ghi chép kinh điển đều được mang đi tịnh hóa đúng như pháp.
    Chúng tôi thiết nghĩ, việc bạn dọn dẹp bàn làm việc và vô tình xé những tờ giấy ghi chép kinh chú chép sai bị loại bỏ trước đó là một việc bình thường, không hề phạm tội “ hủy hoại kinh sách ”. Do không phạm tội nên cũng không hề bị đọa. Trái lại, bạn đã có sự lưu tâm đặc biệt với vấn đề kính trọng Pháp bảo là điều đáng trân trọng. Vì vậy, bạn hãy yên tâm tu học đồng thời luôn giữ tâm kính trọng Pháp bảo để vun bồi và tăng trưởng phước đức.
    645 / Cúng chay, đãi mặn
    Dĩ nhiên là cúng chay và làm tiệc chay đãi khách trong các ngày giỗ ( lễ ) sẽ tốt hơn nhưng khi đối diện với thực tiễn thì không phải gia đình Phật tử nào cũng làm được. Bởi lẽ, giỗ quảy thường là việc chung của các con cháu vốn dĩ “ chín người mười ý ”, cộng thêm khách mời cùng bà con lối xóm cũng không nhiều người quen và cảm nhận hết giá trị của các món chay.
    Do đó, người Phật tử nên vận dụng tinh thần “ tùy duyên ”, cúng chay và đãi chay là rất tốt, trong những trường hợp khác thiếu duyên hơn thì vẫn cúng chay còn đãi khách thì tùy thực tiễn, chay hoặc mặn đều được. Miễn sao vào những dịp giỗ quảy mọi người trong gia đình hòa hợp và hiếu thuận, khách bạn hoan hỷ. Các Phật tử hãy nêu cao tinh thần hòa hiếu, không nên vì vấn đề “ chay - mặn ” mà dẫn đến căng thẳng, xung đột, bất hòa trong ngày giỗ. Nếu đãi tiệc mặn thì việc cần lưu ý nhất là tránh trực tiếp giết hại chúng sanh.
    Có một điều rất quan trọng khác mà chúng ta ít để ý đó là việc cúng và đãi tiệc mặn ( có trực tiếp giết thịt chúng sanh ) chẳng những ảnh hưởng không tốt đến người mất mà còn liên quan ảnh hưởng xấu đến con cháu hiện đang tạo nghiệp.
    Khi người thân mới mất, trong vòng dưới 49 ngày, việc tổ chức tang lễ của thân nhân có liên quan đến sát sanh, thì ngoài việc thân nhân tạo ác nghiệp, nghiệp xấu ấy còn tác động và ảnh hưởng khá lớn đến xu hướng tái sanh của hương linh. Nhưng sau 49 ngày khi thần thức hầu hết đã tái sanh, vào những dịp giỗ quảy họ nếu thân nhân tổ chức cúng và đãi mặn có trực tiếp giết thịt thì người bị tội nghiệp nặng nề không phải hương linh mà chính là con cháu hiện tiền.
    Vì thế, những bận tâm cho hương linh, sợ họ cộng nghiệp giết hại là điều tốt nhưng lo lắng về vấn đề tạo ác nghiệp của chính mình mới là điều cần thiết và quan trọng nhất. Nên không chỉ trong những dịp tang lễ hay giỗ quảy mà mọi lúc mọi nơi trong đời sống hàng ngày, người Phật tử luôn chú tâm tỉnh giác để không tạo nghiệp sát sanh. Đối với những người chưa ăn chay được nhiều ngày trong một tháng thì cứ ăn uống bình thường nhưng quyết không chính tay mình tạo nghiệp giết hại.
    646 / Đọc chú " Vãng sanh " trước khi ăn, được không ?
    Thực tập ăn chay đúng cách rất tốt cho sức khỏe và trưởng dưỡng đạo tâm của người Phật tử. Tuy vậy, tùy theo hoàn cảnh của mỗi người mà điều chỉnh hạnh lành này sao cho phù hợp với thực tiễn. Một người Phật tử sau khi quy y Tam bảo luôn được Chư Tăng Ni khuyến khích thực hành ăn chay một tháng ít nhất là 02 ngày, nhiều hơn thì càng tốt chứ không hề bắt buộc trường chay. Do vậy, vì hoàn cảnh chưa cho phép thì bạn nên ăn chay mỗi tháng 02 ( hoặc 04 ) ngày thôi, còn những ngày khác thì hãy ăn uống bình thường.
    Người Phật tử khi phát tâm giữ giới không sát sinh luôn kiểm soát thân tâm để “ không trực tiếp giết hại, không xúi bảo người giết hại, không thấy sự giết hại mà sanh tâm vui mừng ”. Như vậy, trong quan hệ nhân - duyên - quả chằng chịt, thì việc không ăn chay của bạn có liên quan đến nghiệp sát sanh của người khác nhưng bạn chỉ “ khuyết ” mà không “ phạm ” ( dù gián tiếp ) giới sát sanh. Cho nên, dù chưa ăn chay được như ý nhưng bạn cũng không nên quá mang nặng mặc cảm tội lỗi về việc ăn uống của mình.
    Chính Chư Tăng trong truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy ( Nam Tông ) hiện nay đi khất thực được thí chủ cúng gì thì ăn nấy, không phân biệt chay mặn mà vẫn trọn vẹn với Giới Luật không giết hại chúng sanh do Đức Phật chế định.
    Nên thiết nghĩ, trước khi ăn cơm dù chay hay mặn, bạn không nên đọc thầm bài chú “ Vãng sanh ” và niệm thầm danh hiệu Phật A Di Đà để cầu siêu mà nên nhiếp tâm thầm niệm danh hiệu Phật Thích Ca ( niệm ân Tam bảo ), kế đến quán tưởng đến công ơn Cha Mẹ và tất cả mọi người đã lao nhọc để tạo ra bữa ăn này.
    Ăn cơm ( hay sử dụng các vật khác ) với tinh thần biết ơn sâu sắc và khởi tâm đền đáp mọi người, tri ân cuộc đời bằng sự nỗ lực học tập, lao động chân chính của mình chính là tinh thần chánh niệm trong ăn uống, tiêu thụ hàng ngày của người Phật tử.
    647 / “ Có Phật A Di Đà thật không ? ”
    Đúng là trong Tam tạng kinh điển của Phật Giáo Nguyên thủy không nhắc tới Phật A Di Đà và các chùa, Thiền viện theo truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy hiện nay cũng không thờ Phật A Di Đà cùng Chư Vị Bồ Tát như Quán Âm, Địa Tạng v.v… Đây là quan điểm của Phật Giáo Nguyên Thủy mà chúng ta cần tuyệt đối tôn trọng.
    Tuy vậy, trong truyền thống Phật Giáo Phát Triển ( Bắc Tông ) thì tín niệm về Phật A Di Đà cùng Chư Vị Bồ Tát rất phổ biến, nhất là Tịnh Độ Tông. Phật A Di Đà là một trong những Vị Phật có nhân duyên cứu độ chúng sanh trong cõi Ta Bà sanh về Cực Lạc, do chính Phật Thích Ca giới thiệu. Phật tử chúng ta đã tin Phật Thích Ca thì chắc chắn sẽ tín thuận những gì Phật Thích Ca giảng nói. Do vậy, sẽ thừa khi hỏi “ Có Phật A Di Đà thật không ? ”. Đối với Kinh Vô Lượng Thọ cũng vậy. Kinh này hiện có mặt trong Tam tạng kinh điển của Phật Giáo Bắc Tông, là một trong ba kinh văn căn bản được các Phật tử Tịnh Độ Tông nhiệt tâm tin tưởng, phụng hành. Đây cũng là quan điểm của Phật Giáo Phát Triển mà chúng ta cần tuyệt đối tôn trọng.
    Như vậy, hiện nay trên thế giới có hai truyền thống Phật Giáo lớn ( Nguyên Thủy và Phát Triển ) đang tồn tại song hành. Ở Việt Nam lại càng đặc biệt hơn khi có mặt đầy đủ cả hai truyền thống Phật giáo này. Là Phật tử chân chính, chúng ta cần tìm hiểu để học tập những điểm tương đồng giữa hai truyền thống đồng thời tuyệt đối tôn trọng những điểm dị biệt nếu có.
    ......

  • @user-qv1yo3qe1q
    @user-qv1yo3qe1q 27 дней назад

    Phật Pháp và Cuộc Sống : Tất cả các Pháp đều là Phật Pháp : Chúng sanh đa bệnh - Phật Pháp đa phương : ( đoạn 173 ) :
    523 / Phật Niết bàn nằm nghiêng bên nào ?
    Theo Kinh Trường bộ I, ghi nhận hình ảnh Thế Tôn khi chuẩn bị nhập Niết bàn nằm nghiêng bên phải : “ Rồi Thế Tôn, cùng với đại chúng Tỳ kheo đi đến bên kia sông Hirannavati, tại Kusinàrà Upavattana, rừng Sàlà của dòng họ Mallà, khi đi đến nơi liền nói với Tôn giả Ananda :
    Này Ananda, hãy trải chỗ nằm, đầu hướng về phía Bắc giữa hai cây sàlà song thọ. Này Ananda, Ta nay mệt mỏi, muốn nằm nghỉ.
    Xin vâng, bạch Thế Tôn !
    Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn, trải chỗ nằm, đầu hướng về phía Bắc giữa hai cây sàlà song thọ. Và Thế Tôn nằm xuống, về phía hông bên phải, như dáng nằm con sư tử, hai chân để lên nhau ( Kinh Đại bát Niết bàn, số 16 ).
    Kinh Trường A hàm cũng ghi nhận tương tự như vậy : “ Bấy giờ Phật vào thành Câu thi, Ngài đến nơi sinh quán đời trước, giữa cây song thọ, thuộc bộ tộc Mạt la, và bảo A nan :
    Ông hãy sửa chỗ cho Ta nằm, giữa cây song thọ, đầu quay về hướng Bắc, mặt quay về hướng Tây.
    Sau khi sửa soạn xong, Đức Thế Tôn nằm nghỉ, và tự lấy y Tăng già lê xếp thành bốn lớp đắp lên mình. Ngài nằm nghiêng về bên phải, như sư tử chúa, hai chân chồng lên nhau ” ( Kinh Du hành, số 02 ).
    Kinh điển Đại thừa, thuộc hệ Phật giáo phát triển cũng ghi nhận Đức Phật nhập Niết bàn nằm nghiêng bên phải : “ Sau khi ba lần thuận nghịch nhập các thiền định cùng phổ cáo đại chúng, Đức Thế Tôn nằm nghiêng bên hữu ( phải ) trên giường thất bảo : Gối đầu phương Bắc, chân chỉ thẳng phương Nam, mặt hướng về phương Tây, lưng day qua phương Đông ( Kinh Đại Bát Niết bàn, phẩm 27 ).
    Như vậy, nằm nghiêng bên phải là một trong những đặc điểm quan trọng của tướng Niết bàn. Do đó, tạc tượng Phật Niết bàn nằm nghiêng về bên trái, thiết nghĩ không phù hợp với “ Niết bàn tướng ” mà kinh luận Phật giáo đã đặc tả.
    524 / Thần thức có mặt trong bào thai khi nào ?
    Thần thức là một trong ba thành tố căn bản hình thành nên bào thai, mầm sống trong giai đoạn nguyên thủy và sơ khai nhất. Theo Phật giáo, bào thai do tinh cha huyết mẹ cùng thần thức hòa hợp mà thành. Đoạn kinh sau đây đã xác chứng điều này : “ Này các Tỳ kheo, có ba sự hòa hợp mà một bào thai thành hình : ở đây, cha mẹ có giao hợp và người mẹ không trong thời có thể thụ thai, và hương ấm ( gandhabba ) không hiện tiền, như vậy bào thai không thể thành hình. Ở đây, cha và mẹ có giao hợp, và người mẹ trong thời có thể thụ thai, nhưng hương ấm ( gandhabba ) không hiện tiền, như vậy bào thai không thể thành hình. Và này các Tỳ kheo, khi nào cha mẹ có giao hợp, và người mẹ trong thời có thể thụ thai, và hương ấm có hiện tiền; có ba sự hòa hợp như vậy, thì bào thai mới thành hình ” ( Kinh Trung bộ I, Đại kinh Đoạn tận ái, số 38 ).
    Kết hợp tuệ giác kinh Phật với những khảo nghiệm của khoa học hiện đại, chúng ta có thể xác định, thời khắc thụ thai ( lúc tinh trùng xâm nhập vào trứng ) cũng chính là lúc thần thức có mặt để hội đủ nhân duyên hình thành bào thai.
    Về vấn đề, người Phật tử ăn trứng vịt lộn có phạm giới sát sanh ? Như chúng tôi đã từng trình bày, ngoài những ngày ăn chay thì người Phật tử ăn uống bình thường. Tuy nhiên trong những ngày không ăn chay ấy, người Phật tử nên mua các thực phẩm ( cá, thịt ) đã làm sẵn, không trực tiếp giết hại. Do vậy, nếu người Phật tử luộc trứng vịt lộn ( trực tiếp giết ) thì mang tội sát sanh nhưng mua trứng mà người ta đã luộc sẵn về ăn thì không phạm giới sát. Nhân đây thiết nghĩ cũng cần nói thêm rằng, ăn trứng vịt lộn ở xứ ta là chuyện bình thường nhưng với đa phần người nước ngoài xem đó là “ dã man ”. Vì thế, trong những ngày không ăn chay, Phật tử cũng nên tránh các thực phẩm “ độc ” có thể gây thêm tính ác cho con người.
    525 / Bất hiếu & tà kiến ?
    Chị của bạn lúc gần cuối đời, một phần do bệnh tật đau đớn hành hạ, một phần do phiền muộn và tức giận con cái nên đã nói ra những lời cay độc. Những dấu hiệu đó cho thấy trước lúc chết, cận tử nghiệp của chị cũng không được thanh thản và nhẹ nhàng. Thông thường, người lúc sắp lâm chung mang cận tử nghiệp xấu ác thì khó có thể sanh vào cõi lành.
    Còn những người con của chị bạn đã không tròn câu hiếu đạo khi mẹ của họ còn sanh tiền. Sau khi mẹ chết, vì sợ “ mẹ về cắn ” nên họ đã nhờ thầy pháp trấn yểm, giam cầm mẹ vĩnh viễn ngoài phần mộ chịu lạnh lẽo, đói khát lại càng bất hiếu hơn. Ở đây, chúng tôi chưa nói đến việc liệu thầy pháp có thực sự làm được những yêu cầu ấy hay không, chỉ xét đến động cơ của việc làm này đã cho thấy con cái đã cạn tình với mẹ, bất hiếu nặng nề.
    Theo quan điểm của Phật giáo, một người khi chết đi thì thần thức theo nghiệp thọ sanh. Năng lực của nghiệp rất mạnh mẽ không gì có thể ngăn cản được. Do đó, việc nhờ thầy pháp trấn yểm để giam cầm vĩnh viễn người chết dưới mộ phần là điều không thể. Trấn yểm người thân chỉ là tín niệm dân gian, mang sắc thái tà kiến, mê tín, phi nhân và phi nghĩa.
    Thiết nghĩ, việc giải thoát cho chị của bạn, theo hướng tháo gỡ bùa phép đã trấn yểm, thực sự là không cần. Vì như đã nói ở trên, không gì có thể ngăn được nghiệp lực tìm hướng tái sanh nên chắc chắn chị của bạn không bị “ nhốt dưới mộ ” mà sẽ tùy nghiệp tái sanh vào một trong những cảnh giới của lục đạo. Tuy nhiên, với cận tử nghiệp nhiều vướng mắc và muộn phiền nên chị của bạn khó được sanh vào cõi lành.
    Trong Phật giáo có những pháp thức siêu độ vong linh, nhất là những chúng sanh đọa lạc trong tam đồ, ác đạo. Vấn đề là, những người thân có tâm nguyện và khả năng để thỉnh Tăng lập đàn siêu độ cho người chết hay không.
    ......

  • @user-qv1yo3qe1q
    @user-qv1yo3qe1q 27 дней назад

    Phật Pháp và Cuộc Sống : Tất cả các Pháp đều là Phật Pháp : Chúng sanh đa bệnh - Phật Pháp đa phương : ( đoạn 177 ) :
    533 / Giữ giới không sát sanh
    Trong năm giới, giới không sát hại chúng sanh được xếp đầu tiên, vì giết hại là một tập khí sâu dày của chúng sanh nên Đức Phật nhấn mạnh để chúng ta lưu tâm. Người Phật tử giữ giới không sát sanh cần hết sức lưu ý rằng : Trọng tâm của giới này là không giết người, kế đến là tránh giết các loài to lớn như heo gà chó mèo…, đối với các loài li ti nhỏ nhít thì cũng không cố sát nhưng nếu vô tình giẫm đạp hay làm tổn hại chúng thì phải thành tâm sám hối.
    Do đó, nếu giết người thì người Phật tử phạm giới thứ nhất không sát sanh, chắc chắn sẽ đọa vào ác đạo, chịu quả báo nặng nề. Còn nếu cố tình ( hay vô ý ) giết hại các loài vật khác thì bị khuyết giới, tuy vẫn bị quả báo xấu về sau ( tùy mức độ tạo nghiệp ) nhưng có thể ăn năn, sám hối. Tùy theo sự thành tâm sám hối của mình, đồng thời nguyện không tái phạm và tích cực phóng sanh thì nghiệp sát của mình sẽ mỏng dần cho đến nhẹ nhàng.
    Trong trường hợp vì công việc hay giao tế cần tham dự tiệc tùng với đối tác và bạn bè, nếu bạn làm tổn hại chúng sanh ( như ăn lẩu tôm, cá còn sống nấu ngay trên bàn ) thì như trên đã nói, bạn bị khuyết giới chứ chưa phạm giới. Do đó, bạn phải thành tâm sám hối tội lỗi nghiệp chướng của mình.
    Tuy nhiên, trong những trường hợp có thể từ chối được, bạn cần nói rõ với mọi người rằng bạn là Phật tử, đã phát nguyện không sát hại chúng sanh. Dẫu ngoài những ngày ăn chay thì bạn vẫn ăn uống bình thường nhưng đó là thực phẩm đã làm sẵn, không trực tiếp giết hay chứng kiến người khác giết các loài vật để làm thức ăn cho mình.
    Sự hòa hợp với bạn bè là cần thiết nhưng vẫn có thể hòa mà không đồng. Đơn cử như có khá nhiều người tham dự tiệc tùng mà phải ăn kiêng vì bệnh thì họ chỉ dùng những món phù hợp. Cũng vậy, trong khi nhóm bạn bè ăn lẩu tôm tươi sống, nếu bạn không thích thì có thể gọi cho mình một món khác phù hợp hơn mà không có gì trở ngại cả.
    Thiết nghĩ, người Phật tử chân chính nên tự khẳng định mình là Phật tử trước mọi người và luôn thể hiện những phẩm chất đạo đức tốt đẹp ( không giết hại, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không say nghiện ) của mình. Chính sự thẳng thắn và thành thật về mình ( là một Phật tử ) thì mọi người sẽ tôn trọng, hiểu và cảm thông với mình hơn, nhất là không hề cho mình là lập dị hay cố tình khác người.
    534 / Tùy duyên trong Phật giáo là thế nào ?
    Duyên sinh ( duyên khởi ) là một trong những giáo lý trọng yếu của Phật giáo. Mọi sự, mọi việc ở đời đều do nhân duyên sinh. Các nhân duyên tác động và chi phối lẫn nhau trùng trùng điệp điệp, vô cùng vô tận.
    Tùy duyên có nghĩa chính là tùy thuộc vào nhân duyên. Đủ nhân ( nguyên nhân chính ), đủ duyên ( các nhân phụ ) thì sự việc ( vật ) thành; thiếu nhân, thiếu duyên thì sự việc ( vật ) chưa thành. Sự thành - trụ - hoại - không của thế giới hay sanh - lão - bệnh - tử của nhân sinh hoàn toàn tùy thuộc vào nhân duyên.
    Người Phật tử biết các pháp đều tùy duyên nên chủ động nỗ lực tạo ra các nhân duyên tốt lành để mong nhận quả báo tốt đẹp. Nếu thành công thì người Phật tử cũng không quá tự hào, vì biết duyên lành đã tròn đủ. Ngược lại, sau khi đã hết sức cố gắng mà nếu như sự việc vẫn không như ý mình thì cũng an nhiên, vì chưa đủ duyên.
    Tùy duyên là tâm thái sống minh triết, an nhiên trước mọi biến động của cuộc đời. So với quan niệm “ cái gi đên rôi sẽ đến nên ” một cách đơn thuần thì tinh thần tùy duyên năng động hơn rất nhiều trong việc chủ động tạo thêm nhân duyên tốt lành đồng thời cũng rất nhẹ nhàng nếu “ cái sẽ đến ” không được toại nguyện, như ý.
    535 / Điều phục vọng tưởng :
    Những nỗi khổ niềm đau trong đời thì ai cũng có. Theo thời gian, có người nhanh chóng quên đi quá khứ đau buồn hoặc có nhớ lại thì cũng thoáng qua. Nhưng có người thì không thể nào nguôi ngoai được, ký ức về quá khứ đau buồn rất sâu đậm và mạnh mẽ, luôn trỗi dậy trong tâm trí khiến cho vết thương lòng càng thêm dai dẳng.
    Nói về nhân quả - nghiệp báo thì tất cả những biểu hiện của thân tâm mình trong hiện tại đã phản ánh rõ nét nghiệp của mình đã gây tạo trong quá khứ ( xa và gần ). Điều đáng nói là nghiệp lực của mỗi người do tự mình tạo ra nhưng nghiệp không cố định, nếu nỗ lực tu dưỡng thì có thể chuyển hóa được.
    Bạn hay nhớ lại chuyện “ những người gây oán thù với mình ”. Dù bạn không muốn nhớ những chuyện đau buồn ấy nhưng vẫn cứ nhớ, chứng tỏ trong sâu thẳm của nội tâm bạn vẫn còn cố chấp, chưa thực sự buông xả. Bạn cần bình tâm quán sát thật rõ về những “ oán thù ” ấy để thấy rằng đó là quả đắng của các nhân bất thiện trong những đời quá khứ. Có vay thì phải trả, trả được chừng nào thì nhẹ nhàng hơn chừng nấy.
    Khi chưa biết đạo, tâm mình luôn ghim gút hận thù. Nay mình hiểu rõ đạo lý nhân quả - nghiệp báo ( tất cả đều do mình ) nên chấp nhận những quả báo xấu, xem như đã trả nợ rồi buông xả và tha thứ hết thảy, kể cả những người đã làm khổ mình. Chính sự chấp nhận, tha thứ và buông xả đã tháo tung nội kết chôn vùi trong tâm bấy lâu nay. Khi hạt giống khổ đau và oán hận được nhổ lên và chuyển hóa thì chúng sẽ ít tái hiện lại trong tâm thức. Nhờ đó, tâm bạn sẽ thanh thản, nhẹ nhàng hơn.
    Đối với vấn đề bạn “ hay lo lắng mặc dù chuyện ấy chưa xảy ra với mình và lại hay đặt tình huống giả định rồi sợ hãi ” chính là vọng tưởng và cũng là nghiệp riêng của bạn. Bạn nên quán chiếu việc quá khứ thì đã qua rồi, việc tương lai thì chưa đến để an trú trong hiện tại; mà thực ra hiện tại cũng đang trôi chảy nói gì đến tương lai.
    Đối với ý kiến cho rằng “ vọng tưởng của mình là do các vong linh gợi lên ”, theo chúng tôi, có chăng cũng chỉ là một vài trường hợp hi hữu như báo mộng chẳng hạn. Người học Phật có chánh kiến cần xác quyết rằng vọng tưởng chính là do nghiệp lực của mình ( nội ma ) dấy động, không nên nghĩ rằng vọng tưởng đó là do trời thần ma quỷ vong hồn nào đó ( ngoại ma ) gợi lên.
    Bạn đã biết niệm Phật A Di Đà ( hay Bồ tát Quán Thế Âm ) thì hàng ngày nên siêng năng niệm Phật, lấy đó làm pháp môn tu của mình. Cần có ít nhất hai thời niệm Phật cố định trong ngày, sau đó tùy duyên niệm Phật mọi lúc, mọi nơi.
    Trong quá trình tu tập, không phải đợi vọng tưởng khởi lên mới niệm Phật mà ngược lại bạn luôn niệm Phật, còn vọng tưởng khởi lên thì cứ mặc nhiên ( chỉ cần chánh niệm nhận biết rõ mà không duyên theo rồi tự nó cũng tan biến mà thôi ). Vọng tưởng như vang theo tiếng, như bóng theo hình. Phải thấy rằng, vọng tưởng là khách, tâm chánh niệm với Phật hiệu mới là chủ. Khách đến mà chủ không tiếp thì khách tự ra đi. Nên trọng tâm tu tập của bạn là “ không ngại vọng tưởng khởi lên, chỉ ngại không nhất tâm niệm Phật ”.
    Việc sám hối nghiệp chướng, oan gia trái chủ tiền khiên cũng rất cần thiết nhưng chính yếu của tu tập là thiết lập được giới - định - tuệ trong đời sống hàng ngày. Sống đạo đức thì tâm mới an định, tâm được định thì trí mới sáng, trí sáng thì vô minh phiền não tiêu tan, và nhờ đó bạn thành tựu thảnh thơi, an lạc.
    ......

  • @user-qv1yo3qe1q
    @user-qv1yo3qe1q Месяц назад

    Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo
    Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
    ( Mỗi người hãy tự mình thấp đuốc lên mà đi, hãy tự làm hòn đảo cho chính mình. Tin chắc rằng : Phật, Pháp, Tăng là thường trụ, Phật luôn ở trạng thái Niết Bàn “ tuyệt đối “; Phật giác ngộ là tự mình, do trí “ vô sư, chứ không hải trí hữu sư “; Phật quan sát và nhìn cuộc đời, sự vận hành của tất cả các Pháp mà giác ngộ vì “ tất cả các Pháp đều là Phật Pháp “, “ Như Lai là nghĩa các Pháp như như “; “ Tất cả chúng sinh dù hữu tình hay vô tình đều có Phật tánh “; “ Tất cả các Pháp đều vận hành theo lý “ Duyên sinh “, “ Nhân qủa “, “ Phước nghiệp “……; Khi chiêm ngưỡng tượng Phật, Chúng ta cố gắng thường hình dung Đức Phật đản sanh ở Ca Tỳ La Vệ, Phật thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng, Phật thuyết pháp ở Ba La Nại và Phật nhập diệt ở Câu Thi Na; đó chính là 04 động tâm, tức 04 điểm kích động tâm chúng ta, tác động căn lành chúng ta khiến chúng ta phát tâm đến với Phật. Nếu chúng ta không phát được tâm Bồ đề, đương nhiên không thể đến với Phật, không thể hiểu Phật và không thấy Phật ).
    Nam Mô Thường Tịch Quang Độ Thanh Tịnh Diệu Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật.
    Nam Mô Thập Đại Thị Giả, Tôn Giả, Thập Tam Đại Tỳ Kheo Ni, Một Ngàn Hai Trăm Năm Mươi Năm Vị Tôn Giả, Trưởng Lão, Đại Đức, Sáu Ngàn Vị Sa Di Ni, Hòa Thượng, Ni Trưởng, Sư, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Sư Cô, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thức Xoa Ma Na, Sa Di, Sa Di Ni, Tứ Chúng, Tinh Xá, Đạo Tràng, Tăng Đoàn Của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Tăng Đoàn Của Các Đức Phật Khác Trong Ba Thời Qúa Khứ, Hiện Tại, Vị Lai.
    Nam Mô Thuyết Pháp Đệ Nhất Phú Lâu Na Ni Đa La Ni Tử ( Purnamaitrayaniputra - Punnamantaniputta ) Tôn Giả.
    Nam Mô Trì Giới Đệ Nhất Ưu Bà Ly ( Upali ) Tôn Giả.
    + Chúng con xin nguyện : “ Lấy Giới Luật Làm Thầy - Nghiêm Trì Giới Luật “
    Nam Mô Giải Không Đệ Nhất Tu Bồ Đề ( Subhuti ) Tôn Giả.
    + Chúng con cố gắng giữ cho Thân, Khẩu, Ý được thanh tịnh, tỉnh thức trong từng sát na, hơi thở.
    Nam Mô Luận Nghị ( Hùng Biện ) Đệ Nhất Đại Ca Chiên Diên ( Mahā Kaccāna, Maha Kaccayana, Katyayana ) Tôn Giả.
    Nam Mô Phúc Lành Đầu Tiên ( s, p : Piṇḍola - Bharadvāja, 賓頭盧頗羅墮 ), Phúc Điền Đệ Nhất ) Tân Đầu Lô Phả La Đọa Xà ( Tân Đầu Lô Phả La Đọa Thệ ( 賓頭盧頗羅墮誓 ), Phả La Đọa ( s : Bharadvāja, 頗羅墮 ), Tân Đầu Lô ( 賓頭盧 ) hay Tân Đầu ( 賓頭 ); Trường Mi Tăng ( 長眉僧 ) hay Trường Mi Sa Môn ( 長眉沙門 ) ).
    Nam Mô Thần Thông Đệ Nhất Đại Mục Kiền Liên ( Mahà Moggallàna ) Tôn Giả.
    Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên ( Mahà Moggallàna ) Bồ Tát.
    ( ……Dù Cha ra sao vẫn luôn là đấng sinh thành - Dù Mẹ làm sao cũng luôn mang nặng đẻ đau ……).
    Nam Mô Pháp : Nhất tâm đảnh lễ : Chúng con nguyện y giáo phụng hành :
    Nam Mô Tăng.
    Nam Mô Phật. Nam Mô Pháp. Nam Mô Tăng.
    ……
    “ Hương các loại hoa thơm, Không ngược bay chiều gió, Nhưng hương người đức hạnh, Ngược gió khắp tung bay. Chỉ có bậc chân nhân, Tỏa khắp mọi phương trời. “
    “ Hoa chiên đàn, già la; Hoa sen, hoa vũ quý; Giữa những hương hoa ấy; Giới hương là vô thượng “
    “ Ít giá trị hương này; Hương già la, chiên đàn; Chỉ hương người đức hạnh; Tối thượng tỏa Thiên giới.”
    ……
    + Thập Đại Thị Giả, Tôn Giả ( Xá Lợi Phất - Sāriputra - Trí Huệ Đệ Nhất; Ma Ha Ca Diếp - Mahākāśyapa - Đầu Đà ( Khổ Hạnh ) Đệ Nhất; Mục Kiền Liên - Mahāmaudgalyāyana - Thần Thông Đệ Nhất; Phú Lâu Na - Pūrṇa - Thuyết Pháp Đệ Nhất; Tu Bồ Đề - Subhūti - Giải Không Đệ Nhất; La Hầu La - Rāhula - Mật Hạnh Đệ Nhất; A Nan Đà - Ānanda - Đa Văn Đệ Nhất; Ưu Bà Li - Upāli - Giới Luật Đệ Nhất; A Na Luật - Aniruddha - Thiên Nhãn Đệ Nhất; Ca Chiên Diên - Katyāyana - Luận Nghĩa Đệ Nhất ); Một Ngàn Hai Trăm Năm Mươi Năm Vị Tôn Giả, Đại Đức, Tỷ Kheo, Tỷ Kheo Ni, Sa Di, Sa Di Ni.
    + Chúng Tỷ Kheo Ni : Thập Tam Đại Tỳ Kheo Ni ( Màhàpàjapati Gotamì - Tối Thắng Đệ Nhất; Khemà - Đại trí tuệ, tối thằng; Uppalavannà - Đầy đủ thần thông, tối thắng; Patàcàrà - Trì Luật, tối thắng; Dhammadinnà - Thuyết Pháp, tối thắng; Nandà - Tu Thiền, tối thắng; Sonà - Tinh cần tinh tấn, tối thắng; Sakulà - Thiên nhãn, tối thắng; Bhaddà Kundalakesà - Có thắng trí mau lẹ, tối thắng; Bhaddà Kapilànì - Nhớ đến các thời quá khứ, tối thắng; Bhaddà Kaccana - Đã chứng đạt đại thắng trí, tối thắng; Kisàgotami - Mang thô y, tối thắng; Sigalàmàtà - Đầy đủ tin thắng giải, tối thắng ) và Các Vị ( Cố ) Ni Sư Trưởng, Ni Sư, Sư Cô.
    + Nhị Thập Chúng Tỷ Kheo ( 20 vị ) : Ba Ca Ly: Tín tâm đệ nhất - Bà Kỳ Sa: Thí tài đệ nhất - Bạc Câu La: Không bệnh đệ nhất - Ca Ly Hào Đà Tử Bạt Đề: Tánh quý đệ nhất - Ca Lưu Đà Di: Giao tế đệ nhất - Câu Hy La: Bác giải đệ nhất - Chu Ly Bàn Đà Già: Giải thoát đệ nhất - Câu Sát Đà Na: Hạnh vận đệ nhất - Kiếp Tân Na: Giáo hội Tỳ kheo đệ nhất - Kiều Trần Như: Pháp lạp đệ nhất - La Cưu Sất Ca Bạt Đề: Mỹ ngôn đệ nhất - Ly Bà Đa: Thiền định đệ nhất - Ma Ha Bàn Đề: Vô trưởng đệ nhất - Nan Đà Ca: Giáo hội ni chúng đệ nhất - Tần Đầu Lô: Sư hống đệ nhất - Tô Na Khảo Lỵ Tỳ Sa: Tinh tấn đệ nhất - Tư Bá Ly: Sở đắc đệ nhất - Ưu Lâu Tần La Ca Diếp: Lãnh chúng đệ nhất - Ưu Bà Ly: Ký ức đệ nhất - Văn Nhị Bách Ức: Mỹ âm đệ nhất.
    + Lục Chúng Ưu Bà Tắc ( 6 vị ) : Chất Đa: Thuyết pháp đệ nhất - Kỳ Bà: Y bộ đệ nhất - Nan Cưu La: Tín thất đệ nhất - Tu Đạt: Bố thí đệ nhất - Tu La Am Bà Đa: Bất hại tín tâm đệ nhất - Úc Ca: Cúng dường đệ nhất.
    + Ngũ Chúng Ưu Bà Di ( 5 vị ) : Ca Đế Nhỉ: Tín ngưỡng kiên cố đệ nhất - Ca Ly: Truyền Tam bảo đệ nhất - Tu Bỉ Đa: Khán bệnh đệ nhất - Tỳ Xá Khư: Bố thí đệ nhất - Uất Đa La: Đa văn đệ nhất.
    + Bát Đệ Tử Đặc Thù Của Đức Phật ( 8 vị ) : Chu Ly Bàn Đà Già ( Suddhi panthaka, Cung Thác Bán Ca ) - Kiều Trần Như - Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp ( Urivilia Kasyapa ) - Văn Nhị Bách Ức ( Nhị Thông Ức Nhĩ ) - Ma Ha Ba Xà Ba Đề - Liên Hoa Sắc - Cư Sĩ Tu Đạt ( Cấp Cô Độc ) - Ưu Bà Di Tỳ Xá Khư. ( Vasàkhà, Lộc Mẫu, Vợ Của Trưởng Giả Tu Đạt ).
    ......

  • @user-qv1yo3qe1q
    @user-qv1yo3qe1q Месяц назад

    Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo
    Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
    ( Mỗi người hãy tự mình thấp đuốc lên mà đi, hãy tự làm hòn đảo cho chính mình. Tin chắc rằng : Phật, Pháp, Tăng là thường trụ, Phật luôn ở trạng thái Niết Bàn “ tuyệt đối “; Phật giác ngộ là tự mình, do trí “ vô sư, chứ không hải trí hữu sư “; Phật quan sát và nhìn cuộc đời, sự vận hành của tất cả các Pháp mà giác ngộ vì “ tất cả các Pháp đều là Phật Pháp “, “ Như Lai là nghĩa các Pháp như như “; “ Tất cả chúng sinh dù hữu tình hay vô tình đều có Phật tánh “; “ Tất cả các Pháp đều vận hành theo lý “ Duyên sinh “, “ Nhân qủa “, “ Phước nghiệp “……; Khi chiêm ngưỡng tượng Phật, Chúng ta cố gắng thường hình dung Đức Phật đản sanh ở Ca Tỳ La Vệ, Phật thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng, Phật thuyết pháp ở Ba La Nại và Phật nhập diệt ở Câu Thi Na; đó chính là 04 động tâm, tức 04 điểm kích động tâm chúng ta, tác động căn lành chúng ta khiến chúng ta phát tâm đến với Phật. Nếu chúng ta không phát được tâm Bồ đề, đương nhiên không thể đến với Phật, không thể hiểu Phật và không thấy Phật ).
    Nam Mô Thường Tịch Quang Độ Thanh Tịnh Diệu Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật.
    Nam Mô Thập Đại Thị Giả, Tôn Giả, Thập Tam Đại Tỳ Kheo Ni, Một Ngàn Hai Trăm Năm Mươi Năm Vị Tôn Giả, Trưởng Lão, Đại Đức, Sáu Ngàn Vị Sa Di Ni, Hòa Thượng, Ni Trưởng, Sư, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Sư Cô, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thức Xoa Ma Na, Sa Di, Sa Di Ni, Tứ Chúng, Tinh Xá, Đạo Tràng, Tăng Đoàn Của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Tăng Đoàn Của Các Đức Phật Khác Trong Ba Thời Qúa Khứ, Hiện Tại, Vị Lai.
    Nam Mô Thuyết Pháp Đệ Nhất Phú Lâu Na Ni Đa La Ni Tử ( Purnamaitrayaniputra - Punnamantaniputta ) Tôn Giả.
    Nam Mô Trì Giới Đệ Nhất Ưu Bà Ly ( Upali ) Tôn Giả.
    + Chúng con xin nguyện : “ Lấy Giới Luật Làm Thầy - Nghiêm Trì Giới Luật “
    Nam Mô Giải Không Đệ Nhất Tu Bồ Đề ( Subhuti ) Tôn Giả.
    + Chúng con cố gắng giữ cho Thân, Khẩu, Ý được thanh tịnh, tỉnh thức trong từng sát na, hơi thở.
    Nam Mô Luận Nghị ( Hùng Biện ) Đệ Nhất Đại Ca Chiên Diên ( Mahā Kaccāna, Maha Kaccayana, Katyayana ) Tôn Giả.
    Nam Mô Thần Thông Đệ Nhất Đại Mục Kiền Liên ( Mahà Moggallàna ) Tôn Giả.
    Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên ( Mahà Moggallàna ) Bồ Tát.
    ( ……Dù Cha ra sao vẫn luôn là đấng sinh thành - Dù Mẹ làm sao cũng luôn mang nặng đẻ đau ……).
    Nam Mô Tây Thiên ( Ấn Độ ), Đông Độ ( Trung Hoa ), An Nam ( Việt Nam ), Xiêm La ( Thái Lan ) Truyền Giáo Lịch Đại Tổ Sư Giác Linh.
    Nam Mô Pháp : Nhất tâm đảnh lễ : Chúng con nguyện y giáo phụng hành :
    Nam Mô Tăng.
    Nam Mô Phật. Nam Mô Pháp. Nam Mô Tăng.
    Vui thay, Phật ra đời !; Vui thay, Pháp được giảng !; Vui thay, Tăng hòa hợp !; Hòa hợp tu, vui thay !.
    Khó thay, được làm người; Khó thay, được sống còn; Khó thay, nghe diệu pháp; Khó thay, Phật ra đời !.
    Chúng con thành tâm cầu nguyện, cầu mong cho tất cả pháp giới chúng sinh dù tu theo tông ( tôn ) nào, môn nào trong đạo Phật thì luôn luôn cố gắng nương về, quay về bên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Thánh Chúng, Tứ Chúng trong tăng đoàn của Ngài. Luôn luôn khắc nhớ, hành theo những lời dạy căn bản, xuyên suốt của Ngài : Ba mươi bảy phẩm trợ đạo; Thập nhị nhơn duyên; Lấy giới Luật làm Thầy, nghiêm trì Giới luật; Giữ vững tinh thần “ Lục Hòa “ trong đạo Phật và áp dụng vào đời sống thực tiễn của mỗi người; Đừng làm các điều ác, siêng làm các điều lành, giữ tâm ý trong sạch, là lời Chư Phật dạy; Cố gắng giữ được Thiền định trong từng sát na, hơi thở, ……
    Ba mươi bảy phẩm trợ đạo : ( đoạn 1 ) :
    + Tứ Niệm Xứ ( Bốn Món Niệm Xứ )
    + Tứ Chánh Cần ( Bốn Món Chánh Cần )
    + Tứ Như Ý Túc ( Bốn Món Như Ý Túc )
    + Ngũ Căn ( Năm Căn )
    + Ngũ Lực ( Năm Lực )
    + Thất Bồ Đề Phần ( Bảy phần Bồ Đề )
    + Bát Chánh Đạo Phần ( Tám Phần Chánh Đạo )
    TỨ DIỆU ĐẾ
    Tứ Diệu đế là : Khổ Diệu Đế ( Dukkha ariyasacca ), Tập Diệu Đế ( Samudaya ariyasacca ), Diệt Diệu Đế ( Nirodha ariyasacca ), Đạo Diệu Đế ( Magga ariyasacca ).
    Sau khi đắc đạo thành bậc Chánh đẳng Chánh giác, Đức Thế Tôn, mới Chuyển Pháp Luân, Ngài ngự đến rừng Lộc Giả
    ( Isipatanamigadayavana ), gần thành Baranasi thuyết pháp độ năm vị tỳ khưu, bọn Kiều Trần Như và 18 vạn Phạm thiên.
    1. Khổ Diệu Đế : Đức Thế Tôn tự thuyết rằng :
    Tatthakatama jatipidukkha jarapidukkha byadhi pidukkha maranampidukkha sokaparidevadukkha domanassupayasapidukkha appiyehisampayogodukkha piyehivippayogodukkho yampicchamnalabhati tampidukkha samkhittenapancupadanakkhandhapidukkha
    Nầy các vị tỳ khưu ! Những sự thống khổ mà Như Lai diễn giải đây, nó hằng phá hại chúng sanh phải chịu nhiều sự khổ não không ngừng nghỉ, đeo đuổi mà làm cho chúng sanh phải chịu điêu đứng không cùng, những sự khổ ấy như thế nào ? Nầy các vị tỳ khưu! Sự khổ có tất cả 13 điều :
    1.1. Jati dukkha: khổ vì sự sanh ;
    Như Lai gọi khổ vì sự sanh, bởi chúng sanh đều phải có sự khổ từ khi di chuyển sanh trong 4 loại: andaja: loài noãn sanh, trước sanh trong trứng, sau mới nở ra thành con vật; jalambuja: loài thai sanh, sanh vào bào thai mẹ (như loài người); samsedaja: loài thấp sanh, sanh nơi ẩm thấp (như côn trùng); upapatika: loài hóa sanh, hóa sanh nguyên hình, như Chư thiên, một phen sanh ra thì đều đủ các thể chất, như một người tuổi lên mười sáu. Cách hóa sanh, chẳng phải chỉ có Chư thiên, mà nhơn loại cũng có khi được như nàng Ambapasika, cùng người Bà-la-môn Pokkharasāti.
    Tất cả chúng sanh trong 4 loại này đều phải chịu chi phối của sự sanh, đó là duyên khởi luân hồi trong tam giới, sanh diệt, diệt sanh khắp loài, khắp cõi, không nơi cùng tột. Dầu chúng sanh, thuộc loại Thai sanh, hoặc có lục căn đầy đủ, hoặc không đầy đủ, thuộc loại Noãn sanh, Thấp sanh hay Hóa sanh chẳng hạn đều phải chịu các sự khổ sanh như nhau không sao tưởng được, nhưng loại Thai sanh thường chịu nặng nề hơn.
    ......

  • @user-qv1yo3qe1q
    @user-qv1yo3qe1q Месяц назад

    Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo
    Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
    ( Mỗi người hãy tự mình thấp đuốc lên mà đi, hãy tự làm hòn đảo cho chính mình. Tin chắc rằng : Phật, Pháp, Tăng là thường trụ, Phật luôn ở trạng thái Niết Bàn “ tuyệt đối “; Phật giác ngộ là tự mình, do trí “ vô sư, chứ không hải trí hữu sư “; Phật quan sát và nhìn cuộc đời, sự vận hành của tất cả các Pháp mà giác ngộ vì “ tất cả các Pháp đều là Phật Pháp “, “ Như Lai là nghĩa các Pháp như như “; “ Tất cả chúng sinh dù hữu tình hay vô tình đều có Phật tánh “; “ Tất cả các Pháp đều vận hành theo lý “ Duyên sinh “, “ Nhân qủa “, “ Phước nghiệp “……; Khi chiêm ngưỡng tượng Phật, Chúng ta cố gắng thường hình dung Đức Phật đản sanh ở Ca Tỳ La Vệ, Phật thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng, Phật thuyết pháp ở Ba La Nại và Phật nhập diệt ở Câu Thi Na; đó chính là 04 động tâm, tức 04 điểm kích động tâm chúng ta, tác động căn lành chúng ta khiến chúng ta phát tâm đến với Phật. Nếu chúng ta không phát được tâm Bồ đề, đương nhiên không thể đến với Phật, không thể hiểu Phật và không thấy Phật ).
    Nam Mô Thường Tịch Quang Độ Thanh Tịnh Diệu Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật.
    Nam Mô Thập Đại Thị Giả, Tôn Giả, Thập Tam Đại Tỳ Kheo Ni, Một Ngàn Hai Trăm Năm Mươi Năm Vị Tôn Giả, Trưởng Lão, Đại Đức, Sáu Ngàn Vị Sa Di Ni, Hòa Thượng, Ni Trưởng, Sư, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Sư Cô, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thức Xoa Ma Na, Sa Di, Sa Di Ni, Tứ Chúng, Tinh Xá, Đạo Tràng, Tăng Đoàn Của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Tăng Đoàn Của Các Đức Phật Khác Trong Ba Thời Qúa Khứ, Hiện Tại, Vị Lai.
    Nam Mô Tây Thiên ( Ấn Độ ), Đông Độ ( Trung Hoa ), An Nam ( Việt Nam ), Xiêm La ( Thái Lan ) Truyền Giáo Lịch Đại Tổ Sư Giác Linh.
    Nam Mô Pháp : Nhất tâm đảnh lễ : Chúng con nguyện y giáo phụng hành :
    + Nam Mô Đại Thừa Pháp Bảo Tôn Kinh Kinh Phật Thuyết Kinh Vạn Phật
    Nam Mô Tăng.
    Nam Mô Phật. Nam Mô Pháp. Nam Mô Tăng.
    Chúng con thành tâm tri ân công đức của Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi, Thầy Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Thiền Hạ Tâm và Các Qúy Tôn Đức Khác :
    + Chín mươi mốt kiếp về quá khứ, có Đức Phật tên Tỳ Bà Thi Như Lai, Phật thọ số tám mươi ngàn kiếp. Phật sanh vào nhà Sát Đế Lợi, Phật họ Câu Lân, Phật dưới cây Ba Tra La đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, Phật có ba nhóm Thinh Văn. Hàng Đệ tử Thinh Văn thứ nhất một tên Kiết Sa, hai tên Khán Trà. Phật có thị giả tên Vô Ưu, Phật có con tên Thành Âm. Phật có Cha tên Bàn Đầu, Mẹ tên Bàn Đầu Ý, thành tên Bàn Đầu.
    忍辱爲第一; 佛說無爲最; 不以剃鬚髮; 害他爲沙門
    Nhẫn nhục vi đệ nhất; Phật thuyết vô vi tối; Bất dĩ thế tu phát; Hại tha vi sa môn.
    Tạm dịch : Nhẫn nhục là bậc nhất; Niết bàn là tối thượng; Xuất gia não hại người; Không xứng danh Sa môn.
    + Ba mươi kiếp về quá khứ, có Đức Phật tên Thi Khí Như Lai, Phật thọ số sáu mươi ngàn kiếp. Phật sanh vào nhà Sát Đế Lợi, Phật họ Câu Lân, Phật dưới cây Phân Đà Lợi đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, Phật có ba nhóm Thinh Văn. Hàng Đệ tử Thinh Văn thứ nhất một tên Tinh Tú, hai tên Thượng. Phật có thị giả tên Ly Úy, Phật có con tên Bất Khả Lượng. Phật có Cha tên Câu Na, Mẹ tên Thắng, thành tên A Lầu Na Bạt Đề.
    若眼見非邪; 者不座牀亦復然; 執志爲專一; 是則諸佛敎
    Nhược nhãn kiến phi tà; Tọa sàng diệc phục nhiên; Chấp chí vi chuyên nhất; Thị tắc chư Phật giáo
    Dịch nghĩa : Như mắt thấy sai quấy; Chỗ nằm ngồi cũng vậy; Giữ chí cho chuyên nhất; Là lời chư Phật dạy.
    + Ba mươi kiếp về quá khứ, có Đức Phật tên Thi Khí Như Lai, trong kiếp đó lại có Tỳ Xá Phù Như Lai, Phật thọ số hai ngàn kiếp. Phật sanh vào nhà Sát Đế Lợi, Phật họ Câu Lân, Phật ở dưới cây Ta La đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, Phật có hai nhóm Thinh Văn. Phật có thị giả tên Tịch, Phật có con tên Thiện Trí. Phật có Cha tên A Lầu Na Thiên Tử, Mẹ tên Xứng Ý, thành tên Tùy Ý.
    不 害 亦 不 非; 奉 行 於 大 戒; 於 食 知 止 足; 座 牀 亦 復 然; 執 志 爲 專 一; 是 則 諸 佛 敎
    Bất hại diệc bất phi; Phụng hành ư đại giới; Ư thực tri chỉ túc; Tọa sang diệc phục nhiên; Chấp chí vi chuyên nhất; Thị tắc chư Phật giáo
    Tạm dịch : Không hại, không sai trái; Luôn hành trì đại giới; Ăn uống biết dừng đủ; Chỗ nằm ngồi cũng vậy; Giữ chí cho chuyên nhất; Là lời chư Phật dạy.
    + Trong kiếp Hiền có Phật Câu Lưu Tôn, Phật thọ số mười bốn tiểu kiếp. Phật sanh vào nhà Bà La Môn, Phật họ Ca Diếp, Phật ở dưới cây Ưu Đầu Bạt Đề đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, Phật có một nhóm Thinh Văn,……Phật có thị giả tên Trí, Phật có con tên Thượng. Phật có Cha tên Công Đức, Mẹ tên Quang Bỉ Thiên Tử Vô Úy, thành tên Vô Úy.
    譬如蜂採花; 其色甚香潔; 以味惠施他; 道士遊聚落; 不誹謗於人; 亦不觀是非; 但自觀身行; 諦觀正不正
    Thí như phong thái hoa; Kỳ sắc thậm hương khiết; Dĩ vị huệ thí tha; Đạo sĩ du tụ lạc
    Bất phỉ báng ư nhân; Diệc bất quán thị phi; Đản tự quán thân hành; Đế quán chánh bất chánh
    Tạm dịch : Như ong hút mật hoa; Hương sắc hoa càng thắm; Đem vị ban cho người; Tỳ kheo vào làng xóm
    Không phỉ báng một ai; Thị phi chẳng nhìn đến; Chỉ xét hành vi mình; Có đoan chính hay không.
    + Trong kiếp HIền có Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, Phât thọ số ba mươi tiểu kiếp. Phật sanh vào nhà Bà La Môn, Phật họ Ca Diếp, Phật ớ dưới cây Thi Lợi Sa đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, Phật có một nhóm Thinh Văn. Hàng Đệ tử thinh Văn thứ nhất một tên là Hượt ( sống ), hai tên là Tỳ Đầu La. Phật có thị giả tên Thân ( gần ), Phật có con tên Thắng. Phật có Cha tên Hỏa Đức, Mẹ tên Nan Thắng Thiên Tử Trang Nghiêm, thành tên Trang Nghiêm.
    執志莫輕戲; 當學尊寂道; 賢者無愁憂; 當滅志所念
    Chấp chí mạc khinh hý; Đương học tôn tịch đạo; Hiền giả vô sầu ưu; Đương diệt chí sở niệm
    Tạm dịch : Giữ tâm chớ khinh đùa; Cần học đạo tịch diệt; Hiền giả không sầu lo; Quyết tâm diệt sở niệm.
    + Trong kiếp Hiền có Phật Ca Diếp, Phật thọ số hai mươi tiểu kiếp. Phật sanh vào nhà Bà La Môn, Phật họ Ca Diếp, Phật ở dưới cây Ni Câu Luật đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, Phật có một nhóm Thinh Văn. Hàng Đệ tử Thinh Văn thứ nhất một tên là Du Na, hai tên là Phạ La Đọa. Phật có thị giả tên Ca Thiên, Phật có con tên Đạo Sư. Phật có Cha tên Tịnh Đức, Mẹ tên Thiện Tài Thiên Tử Tri Sử, thành tên Tri Sử ( thành Ba La Nại ).
    一切惡莫作; 當奉行其善; 自淨其志意; 是則諸佛敎
    Nhất thiết ác mạc tác; Đương phụng hành kỳ thiện; Tự tịnh kỳ chí ý; Thị tắc chư Phật giáo
    Tạm dịch : Đừng làm các điều ác; Vâng làm các điều thiện; Giữ tâm ý trong sạch; Là lời chư Phật dạy.
    + Trong kiếp Hiền có Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật thọ số chỉ trong vòng một trăm năm. Phật sanh vào nhà Sát Đế Lợi, Phật họ Cù Đàm, Phật ở dưới cây A Thuyết Tha đặng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, Phật có một nhóm Thinh Văn. Hàng Đệ tử Thinh Văn thứ nhất một tên là Xá Lợi Phất ( trí tuệ đệ nhất ), hai tên là Mục Kiền Liên ( thần thông đệ nhất ). Phật có thị giả tên Khánh Hỷ ( A Nan Đà ), Phật có con tên La Hầu La. Phật có Cha tên Du Đầu Đàn ( Tịnh Phạn Vương ), Mẹ tên Ma Ha Ma Da, thành tên Ca Tỳ La.
    護口意清淨; 身行亦清淨; 淨此三行迹; 修行仙人道
    Hộ khẩu ý thanh tịnh; Thân hành diệc thanh tịnh; Tịnh thử tam hành tích; Tu hành tiên nhân đạo
    Tạm dịch : Giữ miệng, ý thanh tịnh; Thân hành cũng trong sạch; Ba nghiệp đều thanh tịnh; Đạo Như Lai tu hành.